Actisô
1. Tên thường gọi: Actisô
2. Tên khoa học: Cynara scolymus L., thuộc họ cúc – Asteraceae
3. Mô tả: Cây thân thảo cao 1-1,2 m. Thân cây có lông mềm, có khía dọc thân cây. Lá to, dài, mọc so le, phiến lá chia thuỳ ở gốc, những lá ở ngọn hầu như không chia thuỳ, mặt trên lá màu lục và mặt dưới có lông trắng. Cụm hoa ở trên các nhánh, gồm nhiều hoa hình ống và có màu lam tím. Quả nhẵn và dính với nhau thành vòng, dễ tách khi quả chín. Hạt không có nội nhũ.
Cây mọc ở vùng Carthage và các vùng Địa
trung hải, trồng ở Ý và Pháp. Ở Việt nam, actisô được trồng ở Sapa, Tam
Đảo, Nghệ An, Hải Hưng, Lâm Đồng.
4. Bộ phận dùng và thu hái: Toàn cây
(lá, thân, rễ, cụm hoa) – Herba Cynarae Scolymi. Người ta thu hái cụm
hoa chưa nở làm rau ăn vào tháng 12 đến tháng 2. Còn lá cũng được thu
hái lúc cây sắp ra hoa hoặc đang có hoa, rọc bỏ sống lá đem phơi khô hay
sấy khô.
5. Thành phần hoá học: Cụm hoa chứa
3-3,15% protid; 0,1-0,3% lipid; 11-15,5% đường (cần cho người bị bệnh
đái tháo đường), 82% nước, còn có các chất khoáng như mangan, phosphor,
sắt, các loại vitamin:
300 (gama) vitamin A; 120 (gama) vitamin B1, 30 (gama) vitamin B2, 10
mg vitamin C. 100g Actisô cung cấp cho cơ thể 50-70 calo.
Trong lá cây có một chất kết tinh,
thường là phức hợp với calcium, magnesium, kalium, natrium, là một
glucosid mà người ta gọi là Cynarin, có công thức C25H24O12. H2O mang
hai phân tử acid cafeic và một phân tử acid quinic. Trong lá tươi ngoài
Cynarin, có một tannoid, hai heterosid flavonic là cyanosid và một chất
khác không tan trong ete gọi là scolymosid. Các hợp chất polyphenol có
trong lá non nhiều hơn lá già, ở phiến lá nhiều hơn cuống lá, ở chóp lá
nhiều hơn gốc lá. Từ năm 1956 người ta tổng hợp được Cynarin.
6. Tính vị, tác dụng: Bông Actisô có
tính bổ dưỡng khi đã nấu chín, tăng lực, kích thích, làm ăn ngon, bổ gan
(tiết mật), trợ tim, lợi tiểu, chống độc, gây tiết sữa cho phụ nữ nuôi
con nhỏ. Actisô được biết từ lâu nhờ tác dụng lợi mật do Cynarin, người
ta cũng xác định được hỗn hợp các thành phần khác của Actisô, chủ yếu là
acid-acool tạo nên hoạt lực lợi mật của Actisô và còn có những tác dụng
khác như giảm cholesterol-huyết, bảo vệ gan, làm tăng sự bài niệu. Ở
người, Cynarin có tác dụng loại trừ các acid mật làm giảm
cholesterol-huyết và lipoprotein.
Cây Actisô còn non có thể dùng luộc chín
hay nấu canh ăn, những bộ phận thường được dùng làm rau là cụm hoa bao
gồm đế hoa mang các hoa, các lông tơ và các lá bắc có phần gốc mềm màu
trắng bao xung quanh. Người ta mang về, chẻ nhỏ theo chiều dọc từ 6-8
miếng, rồi đem hầm với xương, thịt để ăn cả cái và nước. Bông Actisô là
loại rau cao cấp, khi nấu chín rất dễ tiêu hoá, dùng trị đau gan, giảm
đau dạ dày, rất cần cho những người bị bệnh đái tháo đường.
7. Cách dùng: Sử dụng Actisô dưới nhiều
dạng, có thể dùng tươi hoặc khô hâm uống hay nấu thành cao lỏng, cao
mềm; còn có dạng chiết tươi bằng cồn hoặc làm cồn thuốc. Hiện nay trên
thị trường có nhiều chế phẩm của Actisô: cao Actisô, trà Actisô,
Cynaraphytol viên, thuốc ngọt Cynaraphytol, thuốc nước đóng ống
Actisamin v.v…