Hiển thị các bài đăng có nhãn cách phòng bệnh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn cách phòng bệnh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 24 tháng 10, 2013

Bầu đất còn có tên là rau lúi, rau lùi, đái dầm, kim thất, đái dầm, thiên hắc địa hồng, người Tày gọi là khảm khon… Là loại cỏ, thân nhẵn, có nhiều cành, lá mọc so le, nhọn ở đầu, mép khía răng cưa không đều, lá dày, nhẵn, mọng nước, cuống ngắn. Mặt trên phiến lá màu xanh thẫm đen, mặt dưới màu đỏ tím, do đó có tên “thiên hắc địa hồng” (“thiên hắc” là mặt trên mầu xanh đen, “địa hồng” nghĩa là mặt dưới màu đỏ). Cụm hoa hình đầu, màu vàng cam, mọc thành đầu cành và kẽ lá. Quả bế, hình trụ, mang một mào lông trắng ở đỉnh. Cây ra hoa kết quả vào mùa xuân-hè.


Bầu đất mọc hoang và được trồng tại nhiều nơi để làm rau ăn người ta hái ngọn non trần qua nước sôi, xào hoặc nấu canh cua, cũng có thể trộn dầu giấm,… Khi sử dụng làm thuốc thường hái toàn cây, dùng tươi hoặc phơi, sấy khô.
Bầu đất có vị cay ngọt thơm, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lợi tiểu, tán ứ tiêu thũng, tiêu viêm, chỉ khái (cầm ho). Có thể sử dụng chữa viêm họng, viêm khí quản mạn tính, phong tê thấp khớp xương đau nhức, chấn thương sưng đau, …
Một số bài thuốc thường dùng:
- Hỗ trợ điều trị viêm phế quản:Rau bầu đất 80g, thịt lợn nạc 50g nấu thành canh ngày ăn cùng với cơm. Có thể dùng nhiều ngày.
- Chữa đái rắt, đái buốt (do viêm đường tiết niệu):Dùng bầu đất 80g, rửa sạch, cho 700ml nước sắc nỏ lửa còn 200ml, chia 2 lần uống trong ngày. Dùng liền 10 – 15 ngày. Hoặc có thể dùng bài thuốc sau: Bầu đất 30g, mã đề 20g, râu ngô 20g. Sắc uống ngày một thang, chia 2 lần uống trong ngày, 10 ngày một liệu trình.
- Chữa bầm tím (tổn thương phần mềm) do va đập:
Dùng bầu đất tươi 30g, rửa sạch để ráo nước, thêm vài hạt hồ tiêu, giã nát đắp vào vết thương. Ngày 1 lần mỗi lần khoảng 3 giờ đồng hồ, đắp liền 3 ngày.
- Chữa phụ nữ viêm bàng quang: Bầu đất 15g thổ tam thất, ý dĩ nhân mỗi thứ 10g. Cho vào ấm đổ 800ml nước, đun nhỏ lửa còn 200ml, chia 2 lần uống trong ngày. Dùng 10 – 15 ngày một liệu trình.
-Trẻ em đái dầm: Bầu đất 20g, nấu canh ăn hàng ngày. Nên ăn vào buổi trưa. Các buổi tối nên hạn chế ăn canh, uống nhiều nước.
- Chữa viêm đường tiết niệu (đái buốt, đái dắt): Bầu đất 30g, mã đề 20g, râu ngô 20g. Sắc uống ngày một thang.
- Khí hư, bạch đới: Bầu đất 20g, rễ củ gai sao vàng 16g, cỏ xước 16g, kim ngân hoa 12g, cam thảo đất 16g. Sắc uống ngày một thang.

Thứ Hai, 14 tháng 10, 2013

CÂY CON KHỈ

Từ một hiệu quả điều trị cho một bệnh nhân bị ung thư gan, sau khi các loại thuốc đã bó tay, khi được ăn những lá tươi xanh người bệnh đã có những chuyển biến bất ngờ. Nhiệt độ từ 39,5 độ C hạ xuống còn 37 độ, cơn đau chưa hẳn, nước da bớt vàng, bụng nhỏ lại, người nhẹ nhàng, bệnh nhân có thể ngồi dậy tiếp chuyện.


Cái gì có khả năng làm chuyển bệnh nhanh như vậy, biểu hiện công hiệu của thuốc như sau:

Sau khoảng từ 20 phút đến một giờ thuốc có tác dụng. Nếu ăn 5 lá giảm đau được 3 giờ, 7 lá giảm đau được 5 giờ, tương đương với một liều thuốc đặc trị.
Thực tế ấy làm cho gia đình người bệnh ngạc nhiên, phấn khởi nhưng với lòng luyến tiếc bởi nếu dùng thuốc sớm hơn thì kết quả có thể hy vọng cứu được người bệnh.
Dùng lá trong lúc bệnh tình đã đến giai đoạn cuối nhưng gây được chuyển biến như vậy thì thật tuyệt vời. Ðó là cây “Hoàn Ngọc”, Cây thuốc cực kỳ quý giá. Một món quà thiên nhiên tặng cho con người. Xuất xứ cây này được gọi là cây “con khỉ” vốn là vì khỉ ăn chữa khỏi bệnh thủng ruột, nhưng sau đổi thành “Hoàn Ngọc” vì đã trả lại cho chú bé hòn dái bị biến mất do trò chơi nghịch đá vào bìu nhau.
Cây thuốc rất đa năng. Từ hồi phục trạng thái của cơ thể khỏe mạnh đến các bệnh thông thường cũng như hiểm nghèo. Cây thuốc như cứu tinh trong nhiều trường hợp thúc bách, không rõ nguyên căn, nhưng sau khi ăn, diễn biến của bệnh tương tự như một hành động điều trị, điều chỉnh trạng thái cơ thể, chỗ nào yếu điều trị chỗ đó.
Có thể nêu cụ thể tác dụng cây thuốc như sau:
1. Khôi phục sức khỏe cho người ốm yếu, mệt mỏi, người già, suy nhược thần kinh, làm việc quá sức, khủng hoảng về tinh thần và thể lực.
2. Cảm cúm nhiệt độ cao, rối loạn tiêu hóa.
3. Chấn thương chảy máu, dập gãy cơ thể, dùng như nước uống và thuốc đắp. Ðặc biệt hiệu nghiệm với vết thương sọ não.
4. Khi bị nhiều bịnh một lúc như: Bệnh đường ruột, cảm cúm, gan, thận . . .
5. Ðau dạ dầy, chảy máu đường ruột, lở loét hành lá tràng, viêm loét đại tràng, trĩ nội.
6. Ðau gan sơ gan cổ trướng.
7. Viêm thận, viêm đường tiết niệu, đái ra máu, đái buốt, đái dục, đái gắt, bìu đau nhức. Sau khi uống hoặc ăn 150 lá đến 200 lá khỏi hẳn, tràn dịch màng phổi đều tốt.
8. Ðau bên trong không rõ nguyên nhân.
9. Ðau mắt đỏ, mắt trắng, đau ứ máu.
10. Phụ nữ đang cho con bú bị sa dạ con cũng ăn lá thuốc không ảnh hưởng gì đến sữa.
11. Ðối với người có bệnh huyết áp cao hoặc thấp ăn lá thuốc đều có hiệu quả, ổn định được thần kinh, rối loạn thần kinh thực vật đều chữa khỏi.
12. Có thể dùng cho chó Nhật như đẻ một ngày cho ăn lá sạch ngaỵ Gà chọi sau khi chọi cho ăn lá nó khôi phục sức gấp 3 lần.
Theo tôi dùng chữ “thần dược” với cây thuốc nầy cũng không quá , là một nhà nghiên cứu tôi muốn đặt câu hỏi tại sao? để chúng ta bàn luận. Tại sao khi ăn thuốc có khả năng hiệu chỉnh làm cơ thể ổn định ? có lẽ nhờ phân tích hóa chất gì đó đã tạo nên những hiệu quả như vậy.
Chúng ta tốn rất nhiều thời gian và phải có thí nghiệm tốt. Theo kinh nghiệm trong dân gian, ta hãy rút ra từ thực tế. Ví dụ: Suy nhược thần kinh nặng, huyết áp cao, huyết áp thấp, đái ra máu, đái gắt đều chữa được rất nhanh chóng có những bệnh xem như đối lập nhau cho một loại thuốc nhưng ngược lại thuốc vẫn chữa được phải chăn theo quy luật bảo toàn, cơ thể con người có khả năng bảo tồn lấy sức khỏe nên đã tự động tăng sức đề kháng hoặc tự điều chỉnh, tự cân bằng tương đối để thắng bệnh tật. Do đó hầu hết các bệnh đều tự khắc phục được.
Ở đây, khi ta dùng “Hoàn ngọc”, lá thuốc này có tác dụng chữa bệnh như châm cứu, tức là tự động điều chỉnh lại cơ thể nhưng hoàn toàn tự động hoá để khắc phục bệnh tật do tự tác dụng, tự cân bằng âm dương. Vì vậy cây cỏ có tên là “Nhật Nguyệt”. Chính vì thế mới có khả năng chữa nhiều bệnh cùng một lúc như vậy. Chính từ những suy nghĩ đó, chúng tôi đã vận dụng để chữa được rất nhiều bệnh và phục hồi sức khỏe. Tuy nhiên với từng người còn phải có liều lượng cho phù hợp do tính chất cân bằng âm dương và hàn nhiệt của từng người.
Về hình thức cây thuốc:
Ðây là loại cây lá dài nhọn, mặt sau hơi nhạt, hình lá tương tự màu cây, cây cứng không có hoa, cây có lá mọc đối xứng, kẻ lá chồi cành cây chúc ngược lên, lá nó không bền mà chỉ vàng một chút là rụng ngay. Cây có sức sống khỏe như cành mọc thẳng, nhân giống chủ yếu bằng ngọn cây cắm xuống đất.
Cách dùng và liều lượng:
- Người ta dùng lá tươi là chủ yếu, lá tươi ăn ngay hoặc lấy nước uống, nấu chín lá ăn như canh.
- Do tác dụng chủ yếu là chất nước trong lá, nên vỏ cây hoặc vỏ rễ có thể ngâm bằng rượu hoặc nấu lấy nước. Lá tươi không có mùi vị dể ăn, liều lượng nhiều hay ít tùy thuộc vào từng người. Thông thường nên ăn từ 1- 7 lá và ăn nhiều lần. Mỗi lần không quá 10 lá. Uống quá liều có thể phản ứng nhẹ như người bị choáng váng nhưng chỉ sau 10 – 15 phút là khỏi.
- Các số liệu sau đây là phổ biến: (trừ ngoại lệ)
- Ðau dạ dầy do bị loét, viêm: ăn 2 lần/ngày. Mỗi lần không quá 7 lá. Khoảng 50 lá là khỏi.
- Chảy máu đường ruột: Uống lá tươi hoặc lá đã nát, dùng 7–10 lá. Khoảng 1-2 lần là khỏi.
- Viêm đại tràng co thắt: Ăn như trên 100 lá, kết hợp ăn lá mơ lông trong bữa ăn. Ăn từ 1 đến 2 tháng.
- Viêm gan, sơ gan cổ trướng: Ngày ăn 2-3 lần, mỗi lần 7 lá dùng khoảng 150 lá.
- Ðau thận, viêm thận, đau thường xuyên: Dùng không quá 50 lá, chỉ khoảng 30 lá là dứt cơn đau, ngày 3 lần, mỗi lần 3-7 lá.
- Tả lỏng, đi lỵ, rối loạn tiêu hóa: 7-15 lá, dùng 2 lần là khỏi.
- Mệt mỏi toàn thân: 3-7 lá, ăn 2 lần.
- Ðái gắt, đái buốt, đái dục, đái ra máu: Ăn từ 14-21 lá hoặc dã nát uống nước đặc.
Chữa bệnh gà dùng 1-3 lá, gà chọi sau khi chọi 1-3 lá. Chó cảnh đẻ ăn 1 lá sau 1 ngày đẻ là mạnh ngay. Ðau mắt đỏ, mắt trắng, ứ máu trong mắt lấy 3 lá đắp vào mắt sau một đêm là khỏi.
Làm thuốc là để tự cứu lấy mình và cứu người khi có điều kiện. Ðây là những kinh nghiệm của bản thân tôi, tôi không dám phổ biến sợ người hiểu biết hơn cho là hồ đồ. Song nếu các bạn thu kết quả gì đó thì lấy đó làm kinh nghiệm. Mặt khác khi thu được kinh nghiệm thì nên trao đổi.
Thói quen nhấm nháp một số loại cây, lá tự nhiên để phòng và tự chữa bệnh của loài khỉ đã dạy cho con người biết thêm nhiều bài thuốc quý chữa các bệnh về nhiễm trùng, tiêu hoá, thậm chí ngừa thai. Một ngành khoa học mới mang tên Zoo-pharmacognosie ra đời, chuyên nghiên cứu khả năng tự chăm sóc của động vật bằng cây thuốc tự nhiên.
Trong một khu rừng ở Tanzania, nhà nhân chủng học Richard Wrangham, Đại học Harvard, Mỹ, nhận thấy các con khỉ thường nhấm nháp lá cây Aspilia (thuộc họ hướng dương). Ông nếm thử thì thấy có vị đắng. Đem về phòng thí nghiệm phân tích thấy chứa nhiều chất Thiarubrine A- một chất có tác dụng chống nhiễm vi khuẩn và ký sinh trùng. Cây Aspilia đã được ghi nhận trong nhiều dược điển của các quốc gia. Lá và rễ của 7 chủng loại cây Aspilia được dùng sản xuất nhiều loại dược phẩm chữa trị vết thương, ho, sốt, đau dạ dày.
Còn Machael Huffman, nhà khoa học thuộc Đại học Tổng hợp Tokyo, cũng từng chứng kiến một con khỉ sắp chết đã lấy hết sức tàn để gặm liên tục một thân cây Vermonia amydalina, ngày hôm sau con khỉ đó đã khỏe hơn nhiều. Vì vậy, người Tanzania có truyền thống dùng cây này như một loại kháng sinh chữa các bệnh đường tiêu hóa.
Thực tế cho thấy, khỉ thường ăn lá sung có chất chống nấm. Mùa đông đến, khỉ châu Phi ăn các lá cây có tác dụng chống lạnh, viêm phổi. Giả thuyết của nhà nghiên cứu Karen Strier về giống khỉ cái ở Brazin biết cách hạn chế sinh đẻ, tránh thai bằng cách ăn một loại lá cây giàu chất isoflavonoides đến nay tuy chưa được khẳng định, nhưng được nhiều nhà linh trưởng học đồng tình.
Một số loài khỉ ở Costa Rica còn biết cách chọn sinh con đực hay cái theo ý muốn bằng cách hai vợ chồng khỉ tìm ăn những loại cây giàu chất kiềm, chất toan, phù hợp với một số sách hướng dẫn muốn sinh con gái thì mẹ nên ăn nhiều chất kiềm (âm tính), và muốn sinh con trai thì ăn nhiều chất toan (dương tính).
Ở Việt Nam, những năm trước đây đã từng xuất hiện cơn sốt về “cây con khỉ”, với những tên gọi khác như xuân hoa, hoàn ngọc… được quảng cáo là khi bị bệnh loài khỉ thường tìm những cây này để ăn. Tính chất, công dụng của loại cây này là chống viêm nói chung, chủ yếu là viêm nhiễm đường ruột. Tuy nhiên, không nên dùng bừa bãi vì phân biệt loại cây này không đơn giản, người không hiểu biết về thảo dược có thể bị các lang băm lừa bịp, tiền mất tật mang.
Cây hoàn ngọc còn có tên là cây con khỉ, họ Ô rô (Acantaceae). Có 2 loại là hoàn ngọc đỏ (Pseuderanthemum bracteatum) và cây hoàn ngọc trắng (Pseuderanthemum palatiferum).
Cây hoàn ngọc đỏ
Cây hoàn ngọc đỏ còn có tên cây xuân hoa lá hoa, là cây bụi, cao từ 0,6 – 1,5m, sống nhiều năm. Khi còn non, thân trơn nhẵn, mầu hơi vàng hồng, lá đơn, nguyên, mọc đối, cuống lá dài, phiến lá hình mũi mác. Những lá non, ở ngọn có mầu nâu hoặc hơi vàng đỏ, phủ một lớp lông rất mịn. Lá già màu xanh, mặt trên xanh đậm Cây hoàn ngọc trị bệnh đường ruột, mặt dưới xanh nhạt. Cụm hoa dạng bông, mọc ở kẽ lá hay đầu cành, tràng hình ống, mau tím nhạt. Cây mọc phổ biến ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng: Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương… Lá non nhấm có vị chát se, hơi chua, thường được dùng ăn kèm với thịt, cá như một loại rau gia vị để giúp cho việc tiêu hóa tốt, tránh đầy bụng, sôi bụng, đau bụng.
Khi cây bắt đầu ra hoa vào tháng 12 đến tháng 2 năm sau, người ta cắt lấy phần trên mặt đất, gồm các cành non và lá, rửa sạch phơi khô. Khi dùng cần cắt ra từng đoạn 5 – 7cm, sao vàng.
Hoàn ngọc đỏ có thể dùng để trị các bệnh viêm ruột cấp mạn tính, thuộc thể hàn: đau bụng, quặn bụng, sôi bụng, đầy hơi, đi ngoài phân sống nát, trĩ, đi ngoài ra máu. Ngoài ra còn có tác dụng cầm máu vết thương, lấy lá tươi, rửa sạch, giã nát đắp và băng chặt vào chỗ vết thương chảy máu. Song song có thể dùng lá tươi giã nát vắt lấy nước uống, hoặc sắc lá khô để uống khi bị chảy máu. Có thể dùng riêng hoàn ngọc đỏ với liều 20 – 40g/ngày, sắc uống trị các bệnh đường ruột nói trên. Hoặc phối hợp với một số vị thuốc khác, như hoàn ngọc đỏ 16g, nam mộc hương 12g, hậu phác 12g, trần bì 10g, thương truật 10g, sắc uống, ngày một thang. Uống liền 3 tuần lễ.
Cây hoàn ngọc trắng
Cây hoàn ngọc trắng còn gọi là cây xuân hoa, cũng thuộc loại cây bụi, phân nhiều cành, có chiều cao khoảng 1- 2m, lá mọc đối, hình mũi mác, đầu lá nhọn, thường xuyên xanh cả hai mặt. Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc đầu cành có mầu trắng pha tím. Khi nhấm, lá có dịch nhầy nhớt. Vị thuốc là lá của cây hoàn ngọc trắng. Hoàn ngọc trắng cũng mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi để làm thuốc. Hoàn ngọc trắng cũng được dùng để trị các bệnh viêm nhiễm đường tiêu hóa, rối loạn tiêu hóa… Trên thực tế, hoàn ngọc trắng dùng trị viêm đại tràng thể nhiệt, tốt hơn như táo bón, đau bụng, trĩ xuất huyết. Có thể dùng lá tươi, rửa sạch, ăn sống hoặc sắc lấy nước uống, ngày 8-10g.
Để trị viêm loét dạ dày, tá tràng, xuất huyết đường tiêu hóa, trĩ nội, có thể dùng hoàn ngọc trắng, ngày 2 – 3 lần, mỗi lần 8 – 10g. Dùng liền 2 tuần lễ.
Ngoài ra có thể dùng trị các vết thương khi té ngã bị chảy máu, tụ máu, lở loét… Lấy lá tươi, rửa sạch, giã dập, đắp bó vào nơi bị đau.

Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

Bách bộ

Bách bộ còn gọi là củ ba mươi, dây dẹt ác, mằn sòi (Tày), mùi sấy dòi (Dao), hơ linh (Ba na). Tên khoa học: Stemona tuberosa Lour. Bách bộ là cây mọc hoang ở khắp nơi. Bộ phận dùng làm thuốc là rễ củ ở dưới đất, đã phơi hay sấy khô. Theo Đông y, bách bộ vị ngọt, đắng, tính hơi ôn. Vào kinh phế, có tác dụng nhuận phổi, chữa ho; ngoài ra, có tác dụng tẩy giun, trừ sâu bọ, chấy rận. Liều dùng: 8 – 20g.


Một số cách dùng bách bộ làm thuốc:
Nhuận phổi, chữa ho: Dùng cho lao phổi, ho lâu ngày, sốt hâm hấp buổi chiều, viêm phế quản, ho gà.
- Bách bộ tươi 1kg, bỏ vỏ, bỏ lõi, giã nát, vắt lấy nước cốt, bỏ bã, thêm mật vào thắng để cô thành cao. Mỗi lần uống 1 muỗng, ngày uống 3 lần. Chữa chứng ho lâu năm.
- Bách bộ 40g, thiên môn 40g, mạch môn 40g, bạch mai 3 quả, tang bạch bì 20g. Dùng một chén nước cốt gừng tươi, hòa với mật ong, luyện làm viên bằng hạt nhãn. Mỗi lần ngậm 1 viên. Chữa ho lâu năm, phiền nhiệt dần thành ho lao.
- Bách bộ 16g, kinh giới 12g, bạch tiền 12g, cát cánh 12g. Sắc uống. Chữa cảm mạo gây ho, ngứa họng, có ít đờm.
- Bách bộ 16g, hoàng cầm 12g, đan sâm 12g, đào nhân 12g. Sắc uống ngày một thang, uống liền trong 2 – 3 tháng. Chữa lao phổi. Có thể dùng bách bộ 12g, sắc lấy nước, thêm bột bạch cập 12g, uống.
- Bách bộ 1.000g, sa sâm 1.000g, sắc với 5.000ml nước, bỏ bã, cô đặc thêm 1.000g mật ong, cô nhỏ lửa thành cao. Mỗi lần uống 1 thìa canh, ngày 2 lần. Chữa ho do lao phổi và ho do phổi nóng (phế nhiệt).
- Bách bộ 20g, ma hoàng 8g, tỏi 1 củ, rễ cây bông 3 cái. Sắc uống. Chữa viêm phế quản mạn tính sinh ho, hen suyễn.
Tẩy giun, trừ chấy rận, chữa ngứa:
- Bách bộ, binh lang, sử quân tử, liều lượng bằng nhau, nghiền thành bột, hòa với dầu bôi chung quanh hậu môn. Trị giun kim.
- Bách bộ 63g sắc lấy nước, cô còn 20ml nước đặc thụt rửa vào buổi chiều. Làm liền 2 – 3 tối.
- Bách bộ 200g, rượu cao độ 1.000ml ngâm trong 24 giờ, lấy dung dịch rượu bôi vào chỗ bị chấy rận.
- Bách bộ giã nát, xoa vào chỗ mẩn ngứa, muỗi đốt, viêm da, sâu bọ đốt.
- Bách bộ 20g, khổ sâm 12g, bằng sa 8g, hùng hoàng 8g. Sắc đặc, bôi rửa chỗ bị phát ban.
Diệt côn trùng: Nước sắc bách bộ, thêm ít đường mật để diệt ruồi. Dung dịch 1/20 làm chết hết bọ gậy. Rắc bột bách bộ vào hố phân sẽ giết chết dòi bọ.
Kiêng kỵ: Bách bộ dễ hại dạ dày, dễ gây tiêu chảy nên người yếu dạ, hay tiêu chảy không được uống. Không dùng cho người tỳ vị dương hư. Bách bộ ở liều cao dễ ức chế trung tâm hô hấp, có thể gây tử vong.

Thứ Hai, 9 tháng 9, 2013

Ông Tuân bị đau sưng đầu gối trái, đi khám bác sĩ nói ông bị viêm khớp dạng thấp nên kê đơn thuốc diclofenac 50mg x 2 viên/ngày, chia 2 lần uống sau khi ăn no. Ngoài ra, bác sĩ còn cho ông uống một số loại vitamin uống trong 10 ngày, sau đó khám lại.
Uống thuốc 3 ngày, ông thấy các khớp đỡ sưng đau nên mừng lắm. Nhưng đỡ được cái chân, ông lại thấy đau cái bụng. Phía dưới ức, vùng thượng vị của ông cứ đau âm ỉ, ông còn bị ợ hơi, ợ chua liên tục. Ông thấy khó chịu, nhưng vì mới đi bệnh viện về nên ông ngại đi khám, nguyên cái chuyện xếp hàng cũng đã thấy mệt mỏi rồi. Thế nên, ông định bụng uống hết thuốc chữa khớp rồi đến hôm đi tái khám thì sẽ khám cái bụng một thể. Nhưng càng ngày bụng ông càng đau, ông thấy mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt và đi ngoài phân đen. Đến lúc ông mệt xỉu thì mới chịu để vợ con đưa vào bệnh viện cấp cứu. Bác sĩ chẩn đoán ông bị xuất huyết tiêu hoá sau dùng thuốc chống viêm non steroide. Soi dạ dày cấp cứu phát hiện thấy một ổ loét ở hành tá tràng đang chảy máu. Thì ra, trước đây ông đã nhiều lần bị đau vùng thượng vị, thế mà khi đi khám bệnh, ông không nói với bác sĩ…
Bác sĩ giải thích: Khi dùng các thuốc chống viêm giảm đau nhóm non steroide, một biến chứng rất dễ xảy ra đó là chảy máu đường tiêu hoá; đặc biệt ở các bệnh nhân có tiền sử bị loét dạ dày – tá tràng. Do đó, trước khi sử dụng các thuốc thuộc nhóm này (như các thuốc diclofenac – biệt dược voltarel; profenide; tilcotil…) bác sĩ cần phải hỏi kỹ về tiền sử bệnh lý dạ dày tá tràng, bệnh nhân cũng cần kể cho bác sĩ biết những bệnh trước đây mình từng mắc. Khi dùng các thuốc nhóm này, nếu thấy xuất hiện triệu chứng đau vùng thượng vị, cần ngưng ngay việc sử dụng thuốc và đi khám ngay để phòng biến chứng xuất huyết tiêu hoá.
Cột sống có 33 đốt sống: 7 đốt sống cổ, 12 đốt sống ngực, 5 đốt sống thắt lưng, 5 đốt sống cùng và 4 đốt sống cụt. Tủy sống bắt đầu ở trên tại ngay lỗ lớn xương chẩm nơi tiếp cận với hành não và tận cùng ở dưới ngang mức bờ dưới đốt sống thắt lưng thứ nhất. Trên dọc chiều dài của tủy được gắn với 31 đôi dây thần kinh sống, mỗi dây được gắn với tủy sống qua một rễ trước (rễ vận động) và một rễ sau (rễ cảm giác).
Rối loạn cổ có rất nhiều nguyên nhân như gai xương, thoát vị đĩa đệm, chèn ép tăng động cột sống… do mang vật nặng, ngồi lâu trước máy (lái xe, xem tivi, vi tính), làm việc với thiết bị rung mạnh, kể cả hút thuốc… đột nhiên thấy cứng và đau cổ, có thể một bên hoặc hai bên, đối xứng hoặc không, có thể đau lan ra tay, mặt có thể lệch về một bên. Người bệnh khó thay đổi tư thế cổ vì đau, muốn nhìn về phía nào đó phải quay cả người…

 Thoái hóa đốt sống cổ.
Chữa trị như thế nào?
Cẩn thận đi khám, nếu không có vấn đề gì “ghê gớm” mà chỉ là vẹo cổ đơn thuần có thể dùng các thuốc sau đây.
Thuốc giảm đau: Có nhiều loại như paracetamol hoặc paracetamol + codein như efferalgan codein hoặc có thể dùng các thuốc chống viêm, hạ sốt, giảm đau không steroid (AINS) như aspirin, ibuprofen hoặc thuốc ức chế chọn lọc COX-2 như celevoxil hoặc dẫn chất tổng hợp oxicam như piroxicam. Đau nặng có thể dùng thuốc phối hợp paracetamol AINS như alaxan (ibuprofen và paracetamol).
Kết hợp với thuốc mephenesin (biệt dược: decontractyl, decoztyl, decotatyl, decozactyl… có tác dụng thư giãn cơ, trấn tĩnh nhẹ. Dùng hỗ trợ điều trị các co thắt gây đau, thoái hóa đốt sống, vẹo cổ, rối loạn tư thế cột sống, đau lưng – thắt lưng và các tình trạng co thắt khác.
Chống chỉ định: Mẫn cảm thuốc, rối loạn chuyển hóa porphyrin.
Lưu ý: Không nên dùng thuốc cho người mang thai, người nuôi con bú. Không uống rượu khi dùng thuốc, dùng liều cao thuốc gây buồn ngủ, thuốc có thể gây phản ứng da, hiếm gây sốc phản vệ. Thuốc bôi: tránh bôi vào vết thương hở, nhiễm khuẩn, niêm mạc.
Hoặc kết hợp với tolperison (bd: efelysone, miorelax, mydocalm, tomeron…).
Thuốc có tác dụng thư giãn cơ vân và giãn mạch, tác dụng trên thần kinh trung ương, ức chế quá trình phản xạ gây đau được dùng cải thiện các triệu chứng tăng trương lực cơ liên quan đến hội chứng đốt sống cổ, viêm quanh khớp vai, thắt lưng, liệt cứng liên quan đến bệnh mạch máu não – tủy, thoái hóa đốt sống, di chứng phẫu thuật, chấn thương, xơ cứng cột bên teo cơ, bại não, thoái hóa não – tủy, bệnh mạch máu tủy và các bệnh não tủy khác.
Chống chỉ định: Nhạy cảm quá mẫn với thuốc, nhược cơ năng, mang thai. Người nuôi con bú, thuốc tiêm với trẻ em.
Lưu ý: Có thể bị nhược cơ, nhức đầu, hạ huyết áp, buồn nôn, nôn, đau bụng, ngứa ban, mày đay, phù thần kinh mặt, khó thở. Có thể tăng GOT, GPT, protein niệu, tê đầu chi, co cứng hoặc run chi, chóng mặt, bừng mặt, đổ mồ hôi… Hiếm sốc phản vệ.
Cũng có thể dùng thay thế bởi methocarbamol hoặc eperison (chất tương quan hóa học).
Tập luyện: Tùy mức độ đau, vẹo cổ, luyện tập cho vừa phải. Nằm giường hoặc đệm cứng, không gối đầu cao, luyện tập đầu, cổ là chính, nhẹ nhàng quay, cúi, ngẩng nghiêng sang trái – phải. Làm việc trước máy cần có chế độ nghỉ ngơi và tập nhẹ.
Bệnh lý cổ có thể bán cấp do thoái hóa cột sống dần dà kết hợp với chấn thương nhẹ hoặc lao động quá mức gây ra, dùng thuốc (một loại giảm đau và kết hợp một loại giãn cơ) và tập luyện, bệnh sẽ thuyên giảm nhanh chóng, hiếm tiến triển thành bệnh lý tủy. Tuy nhiên đa số người không chữa trị và luyện tập đều đặn, đến nơi đến chốn có thể có triệu chứng dai dẳng. Trường hợp bệnh lý rễ nặng, giảm chức năng vận động cần phải được phẫu thuật.

Dùng KS không có chỉ định của bác sĩ dẫn đến một số vi khuẩn còn sống sót tạo ra chất chống lại KS đó, gọi là hiện tượng kháng KS.
KS vào cơ thể tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh, đồng thời cũng tiêu diệt luôn các vi khuẩn có ích ở đường ruột mà các vi khuẩn này giúp cơ thể hấp thu một số vitamin B12, K, PP và thúc đẩy quá trình tiêu hóa ở ruột. Vậy dùng KS đã gây ra loạn khuẩn ruột, rối loạn tiêu hóa và bệnh thiếu sinh tố.
Một số vi khuẩn có nội độc tố, khi dùng KS vi khuẩn chết, độc tố vi khuẩn giải phóng vào máu làm cho bệnh nặng thêm và có thể tử vong. Dùng KS có thể gây ngộ độc cho một vài cơ quan như dùng KS nhóm aminosid có thể gây chóng mặt ù tai hoặc giảm thính lực, độc với thận. Cloroxit gây giảm bạch cầu, KS chống lao độc với gan, quinolone tổn thương gân xương.
Một biến chứng tồi tệ nhất là sốc phản vệ, cấp cứu không kịp thời dẫn đến tử vong.
Ngành nông nghiệp còn dùng KS trong chăn nuôi. Lượng KS tồn dư trong đất, trong nước, trong thực phẩm gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu dùng.
Trải qua gần một thế kỷ, vị thế của KS đã được khẳng định, nhờ đó con người có thể chống lại các bệnh nhiễm khuẩn rất hiệu quả. Vì vậy, con người phải có trách nhiệm giữ gìn loại thuốc kỳ diệu đó bằng cách sử dụng thuốc KS hợp lý, đúng chỉ định. Ở những nơi có điều kiện nên làm KS đồ, người dùng KS phải tuân thủ tuyệt đối sự hướng dẫn của bác sĩ. Nếu không, con người đã vô tình đánh mất thứ “vũ khí” lợi hại để bảo vệ chính mình.
Design by Hao Tran -