Quế chi
Tên thuốc: Ramulus Cinnamoni.
Tên khoa học: Cinnamomum loureirrii Ness.
Họ Long Não (Lauraceae)
Bộ phận dùng: vỏ.
- Việt Nam có nhiều loại quế: quế nổi tiếng nhất là Quế Thanh (Thanh Hoá, C.loureiri Nees) rồi đến Quế quy.
- Vỏ quế bóc ở một cây phân chia ra nhiều loại tốt xấu khác nhau, và tác dụng khác nhau.
+ Quế hạ bản: lấy ở phần dưới thân. Thứ này hay giáng xuống mà ít bốc lên.
+ Quế trung châu: lấy ở phần giữa thân cây.
+ Quế thượng biểu: lấy ở phần trên cây.
Hai thứ này có tác dụng bốc lên.
+ Quế chi: lấy ở cành cây, Quế chi tiêm lấy ở ngọn cành. Thứ này đi ra ngoài thân và chân tay.
- Cách xem quế tốt xấu: có nhiều cách:
+ Cạo bỏ vỏ ngoài, mài với ít nước, nếu
ra chất trắng như sữa bò là tốt nhất, nếu nước như nước chè xanh là
loại hai, nếu nước đỏ là loại ba.
+ Nếm miếng quế thấy vị ngọt cay, sau thấy đắng, cuối cùng thấy ngọt (cay ít thôi) là quế tốt.
+ ở Thanh Hoá có câu ‘lòng son, vỏ khế’ là nói lên quế tốt phải như thế.
+ Gọt vỏ quế, cắt đôi, chỗ cắt trong như
sáp, rất mịn và thấy có đường ‘bạch chỉ phân du’ là quế tốt. Sợi chỉ
trắng này phải thẳng nếu ngoằn ngoèo là không tốt lắm.
+ Tây y
cho quế tốt là phải có tỷ lệ tinh dầu cao. Nhưng nói chung quế khô, có
mùi thơm, có chất dầu, vị cay hơi ngọt, vỏ hơi nâu không vụn nát, ẩm
là tốt.
- Ở Trung Quốc có loại quế đơn, quế bì,
còn gọi là quế nhục (C.cassia BL) cây này có mọc ở nước ta. Trên thị
thường còn có quan quế hay quế xây lăng (C.Zeylanicum Nees) có giá trị
nhất.
Tính vị: vị ngọt, cay, tính đại nhiệt. Vào hai kinh Can và Thận.
Chủ trị: trị chân tay lạnh, tả lỵ, đau bụng, bế kinh, tiêu hoá, kiện Vị.
- Ngoại cảm phong hàn: Dùng Quế chi với Ma hoàng làm tăng tác dụng tăng tiết mồ hôi của Quế.
- Thể phong hàn của hội chứng hư biểu
biểu hiện như ra mồ hôi, sợ gió, sốt, mạch Phù Trì: Dùng Quế chi với
Bạch thược trong bài Quế Chi Thang.
- Ðau khớp do nhiễm phong, hàn và thấp biểu hiện như đau các khớp, chân tay, vai và lưng: Dùng Quế chi với Phụ tử.
- Tâm Tỳ dương hư ởbiểu hiện như trống ngực, phù và thở nông: Dùng Quế chi với Phục linh và Bạch truật.
- Dương suy ở ngực biểu hiện như đau
ngực, trống ngực hoặc rối loạn nhịp tim: Dùng Quế chi với Giới bạch,
Qua lâu, Đào nhân, Mẫu đơn bì và Phục linh trong bài Quế Chi Phục Linh
Thang.
Cách Bào chế:
Theo Trung Y: Gọt sạch bì thô. Với thuốc thang thì mài với nước thuốc, làm thuốc hoàn tán thì tán bột.
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Đối với quế
thật tốt, chỉ mài trong bát sành với ít nước đun sôi để nguội, hoặc với
ít nước thuốc thang để uống.
Làm nước hãm (quế thường): cạo bỏ bì
thô, gọt thành miếng mỏng. Tẩm nước đồng tiện 1 – 2 ngày đêm (để giáng
hoả vì nóng quá xông lên hại mắt).
Cho miếng quế đã tẩm vào cái chén có
nắp, đổ nước sôi vào rồi róc ngay ra bỏ đi, cho vào nước sôi khác, lần
này để ngấm nguội rồi mới lấy ra uống. Uống lần sau pha với nước khác
mà dùng. Một lượt vỏ quế như thế có thể pha 2 – 3 lần.
Bảo quản: để tránh mất
hương vị của quế, trát sáp mật ong vào hai đầu thanh Quế, dùng giấy
bóng kính gói kỹ, đựng vào thùng kín. Để nơi khô ráo, kín, mát, tránh
nơi ẩm.
Kiêng ky: không phải hư hàn không nên dùng.
Thận trọng khi dùng Quế chi cho thai phụ.