Cây hoa dẻ
Cây hoa dẻ còn gọi với tên khác là nồi côi, tên khoa học là Platanthera yosemitensis, thuộc họ Na (Annonaceae). Là loại cây mọc hoang trên các đồi cây ven rừng hoặc được trồng làm giàn leo cây cảnh ở các biệt thự.
Hoa dẻ luôn thấy xuất hiện trong đĩa hoa
cúng trên bàn thờ tổ tiên vào ngày rằm, mồng một, lễ tết. Hoa dẻ là
loài hoa dại có năm cánh hoa vàng ươm như ánh trăng mùa thu. Hoa dẻ thơm
nồng nàn hơn cả hoa bưởi, hoa cau. Thường thấy loài hoa dại này sống ở
ven rừng.
Nhiều bộ phận của cây dẻ được dùng làm
thuốc trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian. Bộ phận sử dụng để
làm thuốc là cả cây (thu hái quanh năm, chặt nhỏ, phơi khô, dùng riêng
hoặc phối hợp với cây khác), hoa và rễ.
Theo kinh nghiệm của đồng bào dân tộc
Dao ở tỉnh Tuyên Quang, bà con đã thu hái cây hoa dẻ quanh năm, chặt
nhỏ, phơi khô, dùng riêng hoặc phối hợp với cây bòn bọt, nấu nước sắc để
chữa bỏng và vết thương lở loét nên Học viện Quân y đã bào chế từ 2
dược liệu trên dạng cao lỏng lấy tên là cao SH-91, theo cách làm cụ thể
sau:
Cả cây hoa dẻ và cành lá bòn bọt, mỗi
thứ 5kg, chặt nhỏ, phơi khô cho vào nồi nhôm, đổ ngập nước 1 – 2 cm, nén
nhẹ bằng 1 chiếc vít cho dược liệu không nổi lên, đun sôi trong 3 giờ,
chắt lấy nước thứ nhất. Thêm nước, tiếp tục đun sôi trong 2 giờ, chắt
lấy nước thứ hai. Gộp 2 nước sắc lại, cô nhỏ lửa thành cao. Cao có tỷ lệ
10/1 (10kg dược liệu thu được 1 lít cao) màu nâu nhạt, mùi thơm nhẹ.
Đóng chai nút kín, đun tiệt trùng ở 110 độ C trong 1 giờ.
Khi dùng, chế cao thành thuốc mỡ gồm cao
SH-91 10g, lanolin 10g, sáp ong 2g, vaselin vừa đủ 100g. Ngày bôi 3 – 4
lần. Thuốc không gây mẩn đỏ, ít phù nề, tạo màng che phủ tốt, liền sẹo
nhanh. Thành phần có tác dụng của thuốc chính là tanin, chất làm săn se,
cầm máu, ngừng xuất tiết, tạo màng che phủ và diệt khuẩn trên các vết
bỏng nông và saponin là chất làm giảm sức căng bề mặt chất lỏng, có khả
năng làm tan mủ diệt khuẩn ở các vết bỏng sâu, tạo điều kiện phát triển
tổ chức hạt và biểu mô.
Đông y cho rằng, rễ cây hoa dẻ vị cay,
tính hơi ấm, có tác dụng mạnh, tỳ vị, giảm đau, lợi thấp, chữa tê thấp,
đau nhức gan xương, chân tay tê bại. Còn hoa dẻ tính bình, không độc, có
tác dụng an thần, trấn tĩnh, chữa mất ngủ, ngủ không yên.
Dược liệu được thu hái quanh năm, như rễ
thu hái, đem về rửa sạch, thái mỏng, phơi hay sấy khô cất dùng dần. Hoa
dẻ được thu hái khi mới nở, đem phơi nắng nhẹ hoặc sấy lửa nhỏ để đảm
bảo mùi thơm.
Dưới đây xin giới thiệu những cách trị bệnh từ cây hoa dẻ để tham khảo và áp dụng khi cần.
* Chữa tê thấp, đau nhức gân xương, chân
tay tê bại (Dùng phương “Bách gia chân tàng” là phương thuốc của Hải
Thượng Lãn Ông, rễ cây dẻ phối hợp với các vị thuốc khác): Rễ hoa dẻ, rễ
rung rúc, rễ gắm, vỏ thân ngũ gia bì chân chim, rễ bướm bụng, mỗi vị
80g; rễ sấm nam, rễ cỏ xước, rễ ô dược, rễ bướu bạc, rễ tầm xuân, tầm
gửi, cây dâu, rễ bạch đồng nữ, mỗi vị 40g; rễ chỉ thiên, cả cây roi
ngựa, mỗi vị 20g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, ngâm với 2 lít rượu trắng
trong 1 – 2 tháng, càng lâu càng tốt. Ngày uống 2 lần, mỗi lần một chén
nhỏ.
* Chữa ngộ độc nấm, mẩn ngứa, mụn nhọt
của Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu): Dùng rễ hoa dẻ phối hợp với kim ngân
hoa, mỗi vị 30g, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống làm 2 lần trong
ngày để chữa ngộ độc nấm, mẩn ngứa, mụn nhọt.
* An thần, trấn tĩnh, chữa mất ngủ, ngủ
không yên: Dùng hoa dẻ thu hái khi mới nở, đem phơi nắng nhẹ hoặc sấy
lửa nhỏ để giữ mùi thơm: Lấy 8 – 16g hoa đã khô, cắt nhỏ hãm với nước
sôi, uống 1 lần trước khi đi ngủ. Ngày uống 2 – 3 lần.