Hiển thị các bài đăng có nhãn thuốc chữa bệnh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn thuốc chữa bệnh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2013

Cỏ roi ngựa là loại cỏ nhỏ, sống lâu năm, mọc thẳng, cao từ 10cm – 1m, thân có 4 cạnh. Lá mọc đối, có rãnh, xẻ thuỳ lông chim. Hoa mọc thành chùm ở đầu ngọn, màu xanh. Quả nang, có 4 nhân. Vì thân cây mọc thẳng, có đốt như roi ngựa, nên có tên gọi là cỏ roi ngựa.


Cây mọc hoang ở khắp nơi. Toàn cây được dùng làm thuốc. Dùng tươi hoặc sấy khô.
Theo Y học cổ truyền, cỏ roi ngựa có vị đắng, hơi hàn, vào 2 kinh can và tỳ, có tác dụng giải độc, hoạt huyết, tán ứ, sát trùng, thông kinh… Dùng chữa cảm sốt, đau bụng kinh, kinh nguyệt không đều, mụn nhọt, lở ngứa,…
Một số đơn thuốc thường dùng
Chữa cảm sốt: Cỏ roi ngựa 50g, khương hoạt 25g, thanh cao 25g. Cho các vị thuốc vào nồi đổ ngập nước, sắc lấy 2 bát con, chia thành 2 lần uống trong ngày (cũng có thể đem các vị thuốc tán nhỏ, hãm nước sôi như pha trà uống trong ngày); nếu kèm theo đau họng, thêm cát cánh 15g cùng sắc uống.
Sốt rét: Dùng cỏ roi ngựa khô 30 – 60g, sắc nước uống. Trước và sau lúc lên cơn sốt 1 – 2 giờ uống 1 lần.
Chữa kinh nguyệt không đều: Cỏ roi ngựa 40g, ích mẫu 20g, cỏ tháp bút 10g, ngải cứu 25g. Tất cả sắc với nước uống, ngày 2 lần. Uống trước kỳ kinh 10 ngày.
Chữa đau bụng kinh: Cỏ roi ngựa 30g, huyền sâm 15g, sinh địa hoàng 15g, xích thược 15g, bạch thược 15g, địa cốt bì 15g, nữ trinh tử 15g, cỏ nhọ nồi 12g, xuyên luyện tử 15g, uất kim 5g, mẫu đơn bì 12g. Sắc uống mỗi ngày một thang. Uống liên tục 6 ngày trước khi thấy kinh, một liệu trình là 2 tháng. Trường hợp đau nhẹ, dùng: Cỏ roi ngựa 30g, ích mẫu thảo 30g. Sắc uống 3 thang trước khi thấy kinh, hiệu quả rất tốt.
Bế kinh: Cỏ roi ngựa 40g, rễ cây gai 30g, sắc với nước uống ngày 2 lần. Uống trước kỳ kinh 10 ngày.
Mụn nhọt: Cỏ roi ngựa tươi, giã nhuyễn, vắt lấy nước cốt uống, còn bã đắp lên chỗ mụn nhọt, dùng đến khi khỏi.
Da lở ngứa: lấy 50-100g cỏ roi ngựa tươi, rửa sạch, nấu nước tắm rửa ngày 1 lần. Dùng đến khi khỏ

Thứ Năm, 24 tháng 10, 2013

Bầu đất còn có tên là rau lúi, rau lùi, đái dầm, kim thất, đái dầm, thiên hắc địa hồng, người Tày gọi là khảm khon… Là loại cỏ, thân nhẵn, có nhiều cành, lá mọc so le, nhọn ở đầu, mép khía răng cưa không đều, lá dày, nhẵn, mọng nước, cuống ngắn. Mặt trên phiến lá màu xanh thẫm đen, mặt dưới màu đỏ tím, do đó có tên “thiên hắc địa hồng” (“thiên hắc” là mặt trên mầu xanh đen, “địa hồng” nghĩa là mặt dưới màu đỏ). Cụm hoa hình đầu, màu vàng cam, mọc thành đầu cành và kẽ lá. Quả bế, hình trụ, mang một mào lông trắng ở đỉnh. Cây ra hoa kết quả vào mùa xuân-hè.


Bầu đất mọc hoang và được trồng tại nhiều nơi để làm rau ăn người ta hái ngọn non trần qua nước sôi, xào hoặc nấu canh cua, cũng có thể trộn dầu giấm,… Khi sử dụng làm thuốc thường hái toàn cây, dùng tươi hoặc phơi, sấy khô.
Bầu đất có vị cay ngọt thơm, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lợi tiểu, tán ứ tiêu thũng, tiêu viêm, chỉ khái (cầm ho). Có thể sử dụng chữa viêm họng, viêm khí quản mạn tính, phong tê thấp khớp xương đau nhức, chấn thương sưng đau, …
Một số bài thuốc thường dùng:
- Hỗ trợ điều trị viêm phế quản:Rau bầu đất 80g, thịt lợn nạc 50g nấu thành canh ngày ăn cùng với cơm. Có thể dùng nhiều ngày.
- Chữa đái rắt, đái buốt (do viêm đường tiết niệu):Dùng bầu đất 80g, rửa sạch, cho 700ml nước sắc nỏ lửa còn 200ml, chia 2 lần uống trong ngày. Dùng liền 10 – 15 ngày. Hoặc có thể dùng bài thuốc sau: Bầu đất 30g, mã đề 20g, râu ngô 20g. Sắc uống ngày một thang, chia 2 lần uống trong ngày, 10 ngày một liệu trình.
- Chữa bầm tím (tổn thương phần mềm) do va đập:
Dùng bầu đất tươi 30g, rửa sạch để ráo nước, thêm vài hạt hồ tiêu, giã nát đắp vào vết thương. Ngày 1 lần mỗi lần khoảng 3 giờ đồng hồ, đắp liền 3 ngày.
- Chữa phụ nữ viêm bàng quang: Bầu đất 15g thổ tam thất, ý dĩ nhân mỗi thứ 10g. Cho vào ấm đổ 800ml nước, đun nhỏ lửa còn 200ml, chia 2 lần uống trong ngày. Dùng 10 – 15 ngày một liệu trình.
-Trẻ em đái dầm: Bầu đất 20g, nấu canh ăn hàng ngày. Nên ăn vào buổi trưa. Các buổi tối nên hạn chế ăn canh, uống nhiều nước.
- Chữa viêm đường tiết niệu (đái buốt, đái dắt): Bầu đất 30g, mã đề 20g, râu ngô 20g. Sắc uống ngày một thang.
- Khí hư, bạch đới: Bầu đất 20g, rễ củ gai sao vàng 16g, cỏ xước 16g, kim ngân hoa 12g, cam thảo đất 16g. Sắc uống ngày một thang.

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

Mè đen còn gọi là hồ ma, du tử miêu, vừng đen, tên khoa học là Sesamum indicum L., thuộc họ vừng (Pedaliaceae). Mè đen là loài cây thân thảo có hình 4 cạnh với những tiết diện vuông và những rãnh dọc hoặc có dạng thân rất rỗng hình chữ nhật hay hình tròn cao từ 60-120 cm. Mè đen được trồng khắp nơi để lấy hạt là loại nằm trong nhóm thực phẩm nhiều dinh dưỡng, đồng thời còn là vị thuốc quý.


Theo đông y, mè đen vị ngọt, tính bình, tác dụng dưỡng huyết, nhuận táo, bổ ngũ tạng, hư nhược, ích khí lực, bền gân cốt, sáng mắt, thêm thông minh, dùng ngoài đắp trị sưng tấy, vết bỏng và làm cao dán nhọt. Mè đen còn giúp bổ gan thận, bồi bổ tinh dịch, dưỡng huyết ích khí, làm đen tóc, mịn da, mạnh gân cốt, bổ hư, dưỡng ngũ tạng, thính tai, sáng mắt, rất tốt cho người thiếu máu, tóc bạc sớm, đặc biệt là rất bổ cho người già, sản phụ thiếu sữa. Lá mè có vị ngọt, tính lạnh, có tác dụng ích khí, bổ não tủy, mạnh gân cốt, khỏi tê thấp. Nấu lá vừng làm nước gội đầu thường xuyên giúp tóc có màu đen mượt. Nếu giã lá vừng tươi vắt lấy nước cốt uống chữa được bệnh rong huyết.
Theo các thầy thuốc, dầu mè bôi lên niêm mạc có tác dụng giảm kích thích, chống viêm. Ăn dầu mè làm giảm lượng cholesterol trong máu, phòng trị xơ cứng động mạch, phòng ngừa cao huyết áp ở người lớn tuổi. Dầu mè đen giúp nhuận tràng, thông đại tiện, chữa táo bón, nhất là ở người già. Phòng chống suy dinh dưỡng cho người già yếu suy nhược, trẻ em suy dinh dưỡng. Bổ khí huyết, làm mịn da, đen tóc giúp trẻ lâu nhờ chứa nhiều sắt và vitamin E, PP.

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

Cây hoa dẻ

Cây hoa dẻ còn gọi với tên khác là nồi côi, tên khoa học là Platanthera yosemitensis, thuộc họ Na (Annonaceae). Là loại cây mọc hoang trên các đồi cây ven rừng hoặc được trồng làm giàn leo cây cảnh ở các biệt thự.



Hoa dẻ luôn thấy xuất hiện trong đĩa hoa cúng trên bàn thờ tổ tiên vào ngày rằm, mồng một, lễ tết. Hoa dẻ là loài hoa dại có năm cánh hoa vàng ươm như ánh trăng mùa thu. Hoa dẻ thơm nồng nàn hơn cả hoa bưởi, hoa cau. Thường thấy loài hoa dại này sống ở ven rừng.
Nhiều bộ phận của cây dẻ được dùng làm thuốc trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian. Bộ phận sử dụng để làm thuốc là cả cây (thu hái quanh năm, chặt nhỏ, phơi khô, dùng riêng hoặc phối hợp với cây khác), hoa và rễ.
Theo kinh nghiệm của đồng bào dân tộc Dao ở tỉnh Tuyên Quang, bà con đã thu hái cây hoa dẻ quanh năm, chặt nhỏ, phơi khô, dùng riêng hoặc phối hợp với cây bòn bọt, nấu nước sắc để chữa bỏng và vết thương lở loét nên Học viện Quân y đã bào chế từ 2 dược liệu trên dạng cao lỏng lấy tên là cao SH-91, theo cách làm cụ thể sau:
Cả cây hoa dẻ và cành lá bòn bọt, mỗi thứ 5kg, chặt nhỏ, phơi khô cho vào nồi nhôm, đổ ngập nước 1 – 2 cm, nén nhẹ bằng 1 chiếc vít cho dược liệu không nổi lên, đun sôi trong 3 giờ, chắt lấy nước thứ nhất. Thêm nước, tiếp tục đun sôi trong 2 giờ, chắt lấy nước thứ hai. Gộp 2 nước sắc lại, cô nhỏ lửa thành cao. Cao có tỷ lệ 10/1 (10kg dược liệu thu được 1 lít cao) màu nâu nhạt, mùi thơm nhẹ. Đóng chai nút kín, đun tiệt trùng ở 110 độ C trong 1 giờ.
Khi dùng, chế cao thành thuốc mỡ gồm cao SH-91 10g, lanolin 10g, sáp ong 2g, vaselin vừa đủ 100g. Ngày bôi 3 – 4 lần. Thuốc không gây mẩn đỏ, ít phù nề, tạo màng che phủ tốt, liền sẹo nhanh. Thành phần có tác dụng của thuốc chính là tanin, chất làm săn se, cầm máu, ngừng xuất tiết, tạo màng che phủ và diệt khuẩn trên các vết bỏng nông và saponin là chất làm giảm sức căng bề mặt chất lỏng, có khả năng làm tan mủ diệt khuẩn ở các vết bỏng sâu, tạo điều kiện phát triển tổ chức hạt và biểu mô.
Đông y cho rằng, rễ cây hoa dẻ vị cay, tính hơi ấm, có tác dụng mạnh, tỳ vị, giảm đau, lợi thấp, chữa tê thấp, đau nhức gan xương, chân tay tê bại. Còn hoa dẻ tính bình, không độc, có tác dụng an thần, trấn tĩnh, chữa mất ngủ, ngủ không yên.
Dược liệu được thu hái quanh năm, như rễ thu hái, đem về rửa sạch, thái mỏng, phơi hay sấy khô cất dùng dần. Hoa dẻ được thu hái khi mới nở, đem phơi nắng nhẹ hoặc sấy lửa nhỏ để đảm bảo mùi thơm.
Dưới đây xin giới thiệu những cách trị bệnh từ cây hoa dẻ để tham khảo và áp dụng khi cần.
* Chữa tê thấp, đau nhức gân xương, chân tay tê bại (Dùng phương “Bách gia chân tàng” là phương thuốc của Hải Thượng Lãn Ông, rễ cây dẻ phối hợp với các vị thuốc khác): Rễ hoa dẻ, rễ rung rúc, rễ gắm, vỏ thân ngũ gia bì chân chim, rễ bướm bụng, mỗi vị 80g; rễ sấm nam, rễ cỏ xước, rễ ô dược, rễ bướu bạc, rễ tầm xuân, tầm gửi, cây dâu, rễ bạch đồng nữ, mỗi vị 40g; rễ chỉ thiên, cả cây roi ngựa, mỗi vị 20g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, ngâm với 2 lít rượu trắng trong 1 – 2 tháng, càng lâu càng tốt. Ngày uống 2 lần, mỗi lần một chén nhỏ.
* Chữa ngộ độc nấm, mẩn ngứa, mụn nhọt của Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu): Dùng rễ hoa dẻ phối hợp với kim ngân hoa, mỗi vị 30g, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống làm 2 lần trong ngày để chữa ngộ độc nấm, mẩn ngứa, mụn nhọt.
* An thần, trấn tĩnh, chữa mất ngủ, ngủ không yên: Dùng hoa dẻ thu hái khi mới nở, đem phơi nắng nhẹ hoặc sấy lửa nhỏ để giữ mùi thơm: Lấy 8 – 16g hoa đã khô, cắt nhỏ hãm với nước sôi, uống 1 lần trước khi đi ngủ. Ngày uống 2 – 3 lần.

Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013


Một số bạn đọc gửi thư hỏi về bài thuốc “Tiêu đàm hóa ứ” dùng để chữa bệnh cao huyết áp. Thực ra không có bài thuốc nào mang tên như vậy, “tiêu đàm hóa ứ” trong y học cổ truyền là cụm từ chỉ chung những phương thuốc giúp tiêu ứ, tan đàm.



La bặc tử
Theo lương y Phạm Như Tá, trường hợp bị chứng tiêu đàm hóa ứ, người thầy thuốc Đông y hay dùng bài “Nhị trần thang” gia giảm. Nhị trần thang gồm có các vị thuốc sau: bán hạ chế (12 gr), trần bì (vỏ quýt – 10 gr), phục linh 8 gr, chích thảo 6 gr, sinh khương 3 gr, ô mai 1 quả. Đem tất cả sắc (nấu) để uống. Cách sắc như sau: cho các vị thuốc vào ấm đất sắc cùng 3 chén nước, nấu còn lại 1 chén, chắt ra; nước thứ hai cho tiếp 2 chén nước vào các vị thuốc, nấu còn lại nửa chén. Hòa hai nước lại chia làm 3 lần dùng trong ngày, dùng lúc nước thuốc còn ấm nóng.


Chích thảo
Lương y Phạm Như Tá cho hay, nhị trần thang được dùng trong chữa chứng đàm thấp gây ho, với các triệu chứng: ho đờm trắng, ngực đầy trướng, lợm giọng, buồn nôn, chân tay nhức mỏi, chóng mặt hồi hộp, rêu lưỡi trắng… Đây là một bài thuốc có tác dụng hóa đàm hòa vị nên được dùng khá rộng rãi cho các chứng bệnh sinh ra đàm như: phong đàm (do nhiễm phong tà mà gây bệnh) thì thêm vào các vị thuốc: nam tinh, bạch phụ tử, tạo giác, trúc lịch. Hàn đàm (do dương khí hư, nên hàn đàm và thấp tà kết hợp gây ra bệnh) thì thêm vị thuốc: can khương, tế tân. Nhiệt đàm (còn gọi là đàm hỏa, do ăn uống không điều độ gây ra) thì thêm các vị thuốc: qua lâu, hoàng cầm, thạch cao. Thực đàm (đàm kết tụ) thì thêm: la bặc tử, chỉ xác, sơn tra, mạch nha, thần khúc. Thấp đàm (đàm phát sinh do tỳ không vận hóa) thì thêm vị thuốc: thương truật, bạch truật.

Thứ Tư, 2 tháng 10, 2013

Cỏ ca ri hay hồ lô ba (danh pháp hai phần: Trigonella foenum-graecum) là một loài cây thuộc về họ Đậu (Fabaceae). Cỏ ca ri được sử dụng như là cây thuốc (phần lá) cũng như một loại gia vị (phần hạt). Nó được trồng rộng khắp trên thế giới như là một loại cây trồng bán khô hạn.


Tên gọi khoa học của cỏ ca ri là foenum-graecum có nguồn gốc từ tiếng La tinh để chỉ “cỏ khô Hy Lạp”. Zohary và Hopf lưu ý rằng người ta vẫn chưa chắc chắn nòi giống hoang dã nào của chi Trigonella đã tiến hóa để trở thành giống cỏ ca ri được con người trồng, nhưng tin rằng nó được đem vào gieo trồng lần đầu tiên tại khu vực Trung Cận Đông. Các hạt cỏ ca ri hóa than đã được phục hồi tại Tell Halal, Iraq (với niên đại cacbon phóng xạ là khoảng năm 4000 TCN) và tại các tầng thuộc thời kỳ đồ đồng ở Lachish (Shephelah, Israel), cũng như các hạt khô tìm thấy trong mộ của Tutankhamen [1]. Cato Già liệt kê cỏ ca ri cùng cỏ ba lá và đậu tằm như là các cây trồng để nuôi bò (De Agri Cultura, 27).
Các hạt cỏ ca ri màu vàng hay hổ phách, hình thoi, nói chung hay được sử dụng trong việc làm các món ngâm, bột ca ri khô và nhão, và nói chung hay bắt gặp trong các món ăn của ẩm thực Ấn Độ. Các lá non và chồi cỏ ca ri cũng được sử dụng làm rau ăn còn lá tươi hay khô được dùng để tạo hương vị trong nhiều món ăn khác. Các lá khô (người Ấn Độ gọi là kasuri methi) có vị đắng và mùi mạnh đặc trưng.
Tại Ấn Độ, các hạt cỏ ca ri được trộn với sữa chua và được dùng làm dầu dưỡng tóc. Nó cũng là một thành phần để sản xuất khakhra, một loại bánh mì. Nó được sử dụng trong injera/taita, một loại bánh mì chỉ có trong ẩm thực Ethiopia và ẩm thực Eritrea. Từ để chỉ cỏ ca ri trong tiếng Amhara là abesh (ኣብሽ), và tại đây nó được dùng làm cây thuốc để điều trị bệnh đái tháo đường. Nó đôi khi cũng được dùng như một thành phần để sản xuất một loại bơ (tiếng Amhara: qibé, Tigrinya tại Ethiopia và Eritrea: tesme), và nó là tương tự như ghee trong cách nói của người Ấn Độ. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, tên gọi của cỏ ca ri (çemen) cũng là tên gọi cho một loại bột nhão sử dụng trong pastirma (một món thịt bò ướp gia vị và đem phơi khô trong không khí). Tại Yemen, nó là gia vị chính và là một thành phần thêm vào món ăn dân tộc gọi là saltah. Sự tương tự giữa từ hulba trong tiếng Ả Rập và từ huluba trong tiếng Trung quan thoại biểu lộ tầm quan trọng của cỏ ca ri trong lịch sử. Cỏ ca ri, hay Şambélilé trong tiếng Ba Tư, là một trong bốn cây thuốc được sử dụng trong đơn thuốc của người Iran là ghormeh sabzi.
Tại Ai Cập, các hạt cỏ ca ri được dùng như chè.
Các hạt cỏ ca ri là nguồn giàu polysacarit galactomannan. Nó cũng là nguồn chứa các saponin như diosgenin, yamogenin, gitogenin, tigogenin và neotigogen. Các thành phần hoạt hóa sinh học khác còn có chất nhầy, tinh dầu và các ancaloit như cholin và trigonellin.
Hiệu ứng phụ khi sử dụng, thậm chí chỉ một lượng nhỏ cỏ ca ri (ngay cả khi pha loãng với nước) là mùi xi rô phong hay ca ri trong mồ hôi và nước tiểu, do hợp chất thơm sotolon gây ra. Cỏ ca ri cũng hay được dùng trong sản xuất chất tạo mùi cho các loại xi rô nhân tạo. Hương vị của cỏ ca ri nướng là do các pyrazin thay thế, giống như thì là Ai Cập (Cuminum cyminum). Tự bản thân nó thì nó có vị hơi đắng.
Hạt cỏ ca ri khô
Cỏ ca ri được sử dụng chủ yếu là hỗ trợ tiêu hóa. Nó là lý tưởng để điều trị rò xoang, sung huyết phổi, giảm viêm nhiễm [3]. Nó cũng được sử dụng trong vai trò của chất làm tăng tiết sữa cho các bà mẹ đang nuôi con bú. Nó có thể được tìm thấy trong dạng viên nang tại các hiệu thuốc thực phẩm[2].
Việc sử dụng hạt cỏ ca ri cho thấy nó có tác dụng hạ cholesterol, triglyxerit và các lipoprotein có tỷ trọng thấp ở người và các vật mẫu thực nghiệm (Basch và ctv., 2003). Several human intervention trials chứng minh rằng các hiệu ứng chống đái tháo đường của hạt cỏ ca ri cải thiện phần lớn các triệu chứng trao đổi chất có liên quan tới đái tháo đường kiểu 1 và kiểu 2 ở cả người lẫn các động vật thực nghiệm (Basch và ctv., 2003; Srinivas, 2005). Hiện tại, nó đã có bán dưới dạng viên nang theo các đơn thuốc như là chất bổ sung ăn kiêng để kiểm soát bệnh đái tháo đường và cao cholesterol.
Trong một số thí nghiệm gần đây, hạt cỏ ca ri có tác dụng chống lại ung thư vú (Amin và ctv., 2005) và ruột kết (Raju và ctv., 2006). Các tính chất bảo vệ gan của hạt cỏ ca ri cũng được thông báo trong một vài vật mẫu thực nghiệm (Raju và Bird, 2006;

Cây xạ đen có tên khoa học là Celastrus hindsii Benth.et Hook. Trong xạ đen có chứa các chất: Fanavolnoid (chất chống oxy hóa có tác dụng phòng chống ung thư); Saponin Triterbenoid (có tác dụng chống nhiễm khuẩn); Quinon (có tác dụng làm cho tế bào ung thư hóa lỏng dễ tiêu). Cây xạ đen có tác dụng phòng chống trong điều trị ung thư, hạn chế phát triển của các khối u; tiêu viêm giải độc, mát gan; ăn ngủ tốt, tăng cường sức đề kháng của cơ thể.


Một số bệnh nhân có bệnh đường tiêu hóa nói chung (viêm loét dạ dày, tá tràng; ung thư dạ dày mới phát hiện; viêm gan mạn tính; xơ gan đơn thuần hoặc ung thư gan giai đoạn đầu; sau mổ sỏi túi mật; viêm đại tràng mạn tính; rối loạn tiêu hóa, ăn chậm tiêu, táo bón…) đã uống nước sắc từ cây xạ đen, một số người dùng thấy có kết quả phần nào.
Tuy nhiên, cũng cần biết rằng, dù sử dụng loại nam dược nào cũng tùy thuộc vào cơ địa của mỗi bệnh nhân, không phải bệnh nhân nào dùng cũng đạt kết quả như nhau được. Nhưng với cây xạ đen, theo chúng tôi được biết từ năm 2003 đã qua nhiều ứng dụng lâm sàng trong nước, nhưng chưa có một tác dụng phụ nào.
Có thể dùng xạ đen như sau: lấy 100 gam xạ đen rửa thật sạch cho vào siêu đất với 800 ml nước, đun sôi trên 30 phút rồi gạn lấy nước uống thay cho nước uống khác trong ngày. Dùng khi nào nước sắc nhạt màu thì thay ấm khác. Nước xạ đen nếu để trong tủ lạnh càng thơm ngon, rất dễ uống.

Thứ Ba, 1 tháng 10, 2013

Cây huệ rừng tên khoa học  Dianella ensifolia. Chúng sinh trưởng rất nhiều ở những nơi có độ cao khoảng 1.600 m so với mực nước biển.

Cây có vị cay, tính ấm, có độc nhiều; có tác dụng khử phong, khử độc sát trùng, lợi niệu. Ở Trung Quốc và Malaysia, người ta dùng thân, rễ cây này để chế thành thuốc chữa mụn rộp mọc vòng, mụn nhọt, ghẻ ngứa… Cách sinh sản là lây lan qua thân rễ ngầm và ra hoa vào cuối mùa xuân.


Bệnh rọm, một căn bệnh làm người mắc phải vô cùng đau đớn, dẫn tới dị tật tay chân.
Bệnh rọm là bệnh nhiễm trùng, thường xuất hiện ở bàn tay, chân gây đau nhức, dẫn đến hoại tử nhưng điều trị kháng sinh thường không khỏi. Bệnh có triệu chứng giống với các loại ung nhọt có mủ xanh bên trong, nhưng nếu can thiệp bằng giải phẫu, hay chích nặn mủ bằng các vật kim loại, thường sẽ làm cho bệnh trầm trọng hơn. Có nhiều bệnh nhân, sau khi nằm viện điều trị kháng sinh không khỏi phải tháo khớp, cắt bớt ngón tay, ngón chân mà bệnh vẫn không hết, tiếp tục ăn vào cả vết mổ, gây trầm trọng hơn.
Theo người dân vùng núi, bệnh rọm do râu mép của con cọp (hổ) khi về già rụi tàn để lại một loại vi khuẩn ký sinh vào cây cối, khi người ta đụng phải nó thì gây nên bệnh rọm… Bệnh thường nhiễm qua bàn tay, chân, biểu hiện ban đầu là vừa nhức vừa ngứa, khi sưng lên thường xuất hiện vệt trắng nhỏ hình bầu dục có tia nhỏ chung quanh.
Có ba loại dược liệu không thể thiếu là cây thuốc rọm, phèn chua và lá chuối tiêu. Sau khi bào chế, miếng thuốc được đắp vào vùng nhiễm trùng của người bệnh, người nhẹ thì vài ba ngày lành, nặng thì phải gần ba tuần. Nguyên tắc là thuốc phải được đắp đều đặn đến khi nào hết đau nhức, liền da…

Sắn dây có những bộ phận thường dùng: củ (còn gọi là cát căn), hoa (cát hoa), dây (cát căn đằng), bột từ củ sắn dây gọi là cát phấn… Sau đây là những bài thuốc trị bệnh từ loại cây này. 


1. Cát căn: theo Đông y, củ sắn dây có vị ngọt, mát, tính bình, đi vào kinh tỳ, vị, phế, bàng quang, có tác dụng thanh nhiệt, giải cơ (chứng cổ gáy bị cứng do cảm nắng, huyết áp cao). Củ sắn cạo sạch vỏ ngoài, thái mỏng theo chiều dọc, phơi khô dùng làm thuốc trị cảm nắng, khô cổ khát nước, ban sởi không mọc được. Mỗi lần nấu từ 8-30 gr, có thể nướng vàng (hay sao vàng) rồi nấu nước uống. Củ sắn dây đem nướng vàng, rồi sắc hoặc tán bột dùng có tác dụng trị tiêu chảy khó tiêu. Ngoài ra, củ sắn dây tươi đem rửa sạch, luộc mềm, ăn sẽ tốt cho tỳ vị và mát cơ thể.
2. Cát hoa: dùng 20-40 gr hoa sắn dây (loại khô) đem nấu nước uống, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, nhất là giải rượu.
3. Cát căn đằng: dùng dây sắn đốt tồn tính (đốt chưa cháy hoàn toàn) rồi đem tán bột, uống với nước có tác dụng trị viêm họng, viêm thanh quản cấp tính.
4. Cát phấn: bột củ sắn dây đem pha với nước lọc, đường, chanh trị chứng cảm nắng đau đầu, khô mũi, tiểu vàng. Bột sắn dây còn trị được kiết lỵ do ăn nhiều thức ăn cay, nóng – bằng cách hòa bột với nước cho tan đều, thêm vào một ít đường, rồi bắc lên bếp, khuấy đều tay đến khi dung dịch này đặc lại là dùng được. Hoặc chế biến “chè bông cau” từ bột củ sắn dây, bằng cách: Đậu xanh đã cà vỡ đem ngâm trong nước cùng một ít muối trong 2 giờ. Nấu nồi nước sôi, cho đậu xanh vào nấu đến khi đậu thật mềm. Dùng bột sắn dây đã hòa tan trong nước lạnh cho từ từ vào nồi đậu xanh, vừa cho vào vừa khuấy đều tay, rồi cho đường, hương liệu vào. Chờ sôi lại khoảng 2 phút chè trong nồi chuyển từ trắng đục sang trong. Món chè này có tác dụng thanh nhiệt, bồi bổ cơ thể.
Trồng 1 gốc sắn dây, mỗi gốc chỉ mất khoảng 2m2 đất, 5kg phân NPK, 1 ít phân chuồng, vài kg kali nhưng thu được từ 55-60 kg củ sắn tươi, chế biến được 10 kg bột sắn khô. Mỗi kg bột sắn khô bán trên thị trường với giá từ 45.000-55.000 đồng. Cây sắn dây được trồng từ khoảng tháng giêng, tháng hai và thu hoạch vào tháng Chạp. Nó có ưu điểm là trồng để tận dụng đất trong vườn nhà, dễ trồng, có thể chống chọi được với thời tiết khô hạn và lạnh giá, lại không bị sâu bệnh phá hại.
5 – Một số ứng dụng cụ thể khác
- Chảy máu mũi suốt ngày không ngừng, tâm thần phiền muộn: Củ sắn dây tươi giã nát, vắt lấy nước cốt, uống mỗi lần một chén con.
- Rắn cắn: Giã lá sắn dây tươi vắt lấy nước uống, bã đắp lên nơi rắn cắn.
- Vết thương chảy nhiều máu: Dùng lá sắn dây tươi giã nát, đắp vào vết thương.
- Viêm ruột, đau bụng đi ngoài giống kiết lỵ, cồn cào, buồn bực, nôn ọe do uống nhầm các thứ thuốc nóng hoặc quá mãnh liệt: Dùng bột sắn dây quấy đường uống; hoặc dùng cát căn 30 g, rau má 20 g giã nát, chế thêm nước, vắt lấy nước cốt uống trong ngày.
- Trẻ sơ sinh miệng mím chặt, sùi bọt mép, không bú được: Lấy một đoạn dây sắn dây đốt thành than, nghiền mịn, dùng khoảng 3-5 g bột hòa với sữa mẹ, nhỏ vào miệng trẻ. Làm như vậy vài lần trẻ sẽ mở miệng và bú được.
- Ngực nóng, thổ huyết không ngừng: Củ sắn dây tươi giã nát, vắt lấy 500 ml uống.

Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

Tùy từng địa phương mà cây óc chó cũng có những tên gọi khác nhau như cây sung dại (miền Bắc) hay ổi dại (miền Nam), vì quả của nó nhỏ bằng trái trứng cá, hình giống quả ổi nhỏ mới mọc, nhưng bên trong ruột mềm, chứa những hạt như ruột quả sung.



Cây óc chó
Lá của nó có ba loại khác nhau mọc trên cùng một cành, nếu tính theo chiều dài một gang tay đo từ trên ngọn xuống (khoảng 20cm) gọi là đọt, cùng một đọt này có tới 3 loại lá đó là: trên cùng là lá ổi, lá giữa to hơn chia 2 phần nửa bên hình lá ổi, nửa bên hình lá đu đủ, còn lá dưới to hơn nữa là lá đu đủ nhỏ. Song cũng tùy loại cây óc chó mà có tên khác như vú chó hay vú bò (ở đồng bằng) hay cây hồ đào (ở vùng rừng). Chúng đều là những loại cây mọc hoang ở bờ ruộng bờ nương, rẫy, nơi ven rừng… Như vậy óc chó cũng có hai loại đó là cây vú chó, vú bò, mọc thành những bụi nhỏ ở vùng đồng bằng nơi ven rừng, bờ ruộng rẫy ở quanh làng, có tên khoa học là Ficus hirta Vahl. Còn cây mọc trong rừng có tên khác là cây hồ đào với tên khoa học Juglans regiaL.
Theo đông y, rễ của cây óc chó đồng bằng (Ficus hirta Vahl, còn gọi là vú chó hay vú bò) có vị ngọt hơi đắng, tính bình, tác dụng khử phong thấp, mạnh gân cốt, khử ứ tắc, tiêu thũng, sinh tân. Ngay từ xa xưa danh y Tuệ Tĩnh đã đã biết sử dụng nhựa mủ trắng của cây óc chó pha trộn cùng nghệ vàng làm hoàn để trị chứng bụng trướng đầy, đại tiện táo kết. Lá hay quả cây óc chó giã nát đắp chữa vết thương bầm tím…
Cây óc chó loại to mọc ở rừng có vị ngọt hơi chát, tính ấm, đi vào hai kinh phế, thận, để bổ dưỡng gan thận, làm mạnh lưng gối, thu liễm phổi, hạ suyễn, cố thận, sáp tinh. Công dụng làm thuốc bồi dưỡng cơ thể, trừ ho đờm, lao lực quá độ sinh ho, hen suyễn, lưng đau mỏi gối, chân yếu, làm thuốc dưỡng da, đen tóc, lợi tiểu, trừ trĩ. Lá óc chó còn sử dụng làm thuốc mỹ phẩm cho da, làm săn da, sát khuẩn, khử lọc máu. Dầu óc chó dùng chữa phòng lở chàm và nhuộm đen tóc. Cũng có tài liệu đông y nói rằng nhân óc chó còn gọi là hồ đào nhục, có vị ngọt, tính bình hơi ấm, tác dụng bổ phế, thận, làm mạnh sức, béo người, đen tóc, trơn da, chữa các chứng tiết tinh, ho lâu, gối lưng đau mỏi…
Cây óc chó cũng có tác dụng chữa bệnh hở van tim và ngừa nhồi máu cơ tim. Chuyện kể rằng cố bác sỹ Lương Hoàng Phấn học được ở Tây Tạng từ vị Sư Lạt Ma và ông đã hướng dẫn dùng 9 đọt cây óc chó, cho ½ ly nước rồi giã vắt lấy nước cốt. Lấy cùng 1 bó hẹ tươi chừng 1 nắm tay, cũng cho ½ ly nước giã vắt lấy nước để riêng. Hai ly này đem phơi sương trong đêm, cho đến 12 giờ đêm mang vào và uống riêng từng ly một, mỗi lần uống từng ly này cách nhau 30 phút (uống ly nào trước cũng đều được). Mỗi tuần uống hai đêm liền, nhưng sang tới tuần thứ hai cũng uống liên tiếp hai ngày liền trùng vào hai ngày tuần trước đã uống (bài thuốc đã chữa thành công một bà già 60 tuổi bị hở van tim nặng tại Nam bộ sau 4 lần uống). Sau đây xin giới thiệu vài phương thuốc chữa trị từ cây óc chó để tham khảo và có thể áp dụng.
* Chữa vết thương đau nhức: Dùng nhân hạt óc chó giã nhỏ hòa với rượu uống, kết hợp lấy lá óc chó tươi hay vỏ quả giã nát đắp rịt bên ngoài vết thương.
* Chữa người già hen suyễn, đái ra cát sỏi: Giã hạt óc chó nấu cháo thường ăn sẽ khỏi.
* Chữa bỏng, lở chàm, nhuộm đen tóc: Lấy dầu óc chó bôi ngoài, hay chải tóc.
* Chữa thận lạnh, đau buốt ngang lưng, rũ mỏi, liệt dương, đái són, đái nhiều, vãi đái, tiết tinh: Nhân hạt óc chó (hồ đào nhục) 12g, ba kích 10g, nhân quả rể (ích trí nhân) 8g, ô dược 8g, cẩu tích 8g, sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần.
Quả óc chó bảo vệ bạn từ trong ra ngoài, từ đầu đến chân. Chúng ta hãy cùng khám phá những lợi ích tuyệt vời của loại quả này đối với sức khỏe con người.
1. Cải thiện sức khỏe tim mạch
Quả óc chó đã được coi là loại hạt cho sức khỏe trái tim. Các cuộc nghiên cứu trong nhiều thập kỷ qua đã chỉ ra, quả óc chó có vô số lợi ích đối với trái tim và hiệu quả hơn bất cứ loại quả nào trên trái đất. Có điều này là do quả óc chó có nhiều axit béo omega 3, khoáng chất, vitamin và chất chống oxy hóa.
Axit béo omega 3 được biết đến với hiệu quả ngăn ngừa cục máu đông, là nguyên nhân chính gây nên các cơn đau tim. Kết hợp với chất xơ, axit béo omega 3 cũng làm giảm mức độ LDL (lipoprotein mật độ thấp) hoặc cholesterol xấu – một trong những tác nhân ảnh hưởng đến sức khỏe trái tim. Chứng loạn nhịp tim hoặc tim đập thất thường cũng có thể được chữa trị bằng một lượng axit béo omega 3 phù hợp. Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm FDA đã tuyên bố, quả óc chó là thực phẩm cho trái tim khỏe mạnh và nên được bổ sung vào chế độ ăn uống cân bằng để bảo vệ sức khỏe tim mạch.
2. Củng cố động mạch
Ngoài tác dụng bảo vệ trái tim, quả óc chó còn có tác dụng rất lớn đối với các bệnh nhân huyết áp cao và giúp lớp màng động mạch khỏe mạnh hơn.
3. Ngăn ngừa sỏi túi mật
Dữ liệu thu thập từ hơn 80.000 người và trải qua 2 thập kỷ nghiên cứu đã cho thấy quả óc có thể ngăn ngừa sỏi túi mật. Vì vậy, nếu bạn đang đối mặt với nguy cơ bị sỏi túi mật hay không muốn mình mang căn bệnh này hãy ăn vài quả óc chó mỗi ngày.
4. Bảo vệ xương
Một thực tế ai cũng biết là xương yếu dần theo tuổi tác. Mật độ khoáng chất trong xương giảm xuống sẽ dẫn đến hiện tượng loãng xương. Dinh dưỡng phong phú có trong quả óc chó sẽ giúp xương của bạn chắc khỏe cho đến tuổi già. Những người thường xuyên ăn quả óc chó sẽ không phải đối mặt với hiện tượng giảm khoáng chất khiến xương bị yếu khi về già.
5. Thực phẩm của trí não
Quả óc chó là loại thực phẩm đặc biệt tốt với trí não. Các cuộc nghiên cứu đã chỉ ra, axit béo omega 3 có trong quả óc chó giúp duytrì chất béo cấu trúc, loại chất chiếm đến 60% bộ não. Loại chất béo cấu trúc này giúp bộ não hoạt động đúng chức năng. Bộ não là trung tâm xử lý của cơ thể, bổ sung đầy đủ dưỡng chất cho nó sẽ giúp tăng cường trí nhớ và nhận thức. Nó cũng giúp giảm nguy cơ mắc bệnh trầm cảm và các vấn đề hành vi.
6. Tốt cho bệnh nhân tiểu đường
Quả óc chó đặc biệt tốt đối với bệnh nhân tiểu đường loại 2. Nó không chỉ giúp ngăn ngừa bệnh tiểu đường mà còn giúp tạo ra insulin, một loại chất mà các bệnh nhân tiểu đường không có. Bệnh nhân tiểu đường có nguy cơ mắc bệnh tim rất cao, vì vậy mà quả óc chó rất tốt với bệnh nhân tiểu đường.
7. Liều thuốc tự nhiên giúp nhuận tràng
Nếu bạn bị táo bón mãn tính thì quả óc chó sẽ giúp bạn tạo nên sự khác biệt. Quả óc chó có hàm lượng chất xơ cao, vì vậy mà chúng có tác dụng như thuốc nhuận tràng. Nhai vai hạt óc chó mỗi ngày bạn sẽ thấy ngay kết quả tuyệt vời của nó.
8. Chiến đấu với một số bệnh ung thư
Quả óc chó rất giàu chất chống oxy hóa và một số loại khác của chất chống oxy hóa. Hợp chất chống oxy hóa được gọi là axit ellagic, loại chất rất hữu ích trong cuộc chiến chống ung thư. Nó cũng giúp tăng cường hệ miễn dịch, do đó nó có thể giúp bệnh nhân ung thư phục hồi trong giai đoạn hóa trị hoặc xạ trị.
9. Tránh tình trạng mất ngủ
Tất cả chúng ta đều mất ngủ ở một thời điểm nhất định nào đó. Các cuộc nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ăn vài quả óc chó trước khi đi ngủ sẽ ngăn ngừa chứng mất ngủ tốt hơn so với cách truyền thống là uống một cốc sữa ấm.
Cơ thể chúng ta sản xuất một loại hormone gọi là melatonin có trách nhiệm cho một số chức năng, trong đó có liên quan đến mất ngủ. Melatonin là những tín hiệu não rằng công việc đã được thực hiện đủ, cơ thể mệt mỏi và cần ngủ. Cơ thể thường tiết ra melatonin vào khoảng thời gian tương tự mà bạn ngủ mỗi đêm. Nhưng khi chúng ta già, hàm lượng melatonin sản xuất bởi cơ thể giảm. Đây là lý do tại sao rất nhiều người cao tuổi khó ngủ và thường ngủ chỉ 4-5 tiếng một đêm. Quả óc chó là một nguồn tự nhiên và phong phú chất melatonin. Vì vậy nhấm nháp vài quả óc chó trước khi đi ngủ là cách để bạn tránh hiện tượng mất ngủ.

Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2013

Actisô


1. Tên thường gọi: Actisô

2. Tên khoa học: Cynara scolymus L., thuộc họ cúc – Asteraceae

3. Mô tả: Cây thân thảo cao 1-1,2 m. Thân cây có lông mềm, có khía dọc thân cây. Lá to, dài, mọc so le, phiến lá chia thuỳ ở gốc, những lá ở ngọn hầu như không chia thuỳ, mặt trên lá màu lục và mặt dưới có lông trắng. Cụm hoa ở trên các nhánh, gồm nhiều hoa hình ống và có màu lam tím. Quả nhẵn và dính với nhau thành vòng, dễ tách khi quả chín. Hạt không có nội nhũ.


Cây mọc ở vùng Carthage và các vùng Địa trung hải, trồng ở Ý và Pháp. Ở Việt nam, actisô được trồng ở Sapa, Tam Đảo, Nghệ An, Hải Hưng, Lâm Đồng.
4. Bộ phận dùng và thu hái: Toàn cây (lá, thân, rễ, cụm hoa) – Herba Cynarae Scolymi. Người ta thu hái cụm hoa chưa nở làm rau ăn vào tháng 12 đến tháng 2. Còn lá cũng được thu hái lúc cây sắp ra hoa hoặc đang có hoa, rọc bỏ sống lá đem phơi khô hay sấy khô.
5. Thành phần hoá học: Cụm hoa chứa 3-3,15% protid; 0,1-0,3% lipid; 11-15,5% đường (cần cho người bị bệnh đái tháo đường), 82% nước, còn có các chất khoáng như mangan, phosphor, sắt, các loại vitamin: 300 (gama) vitamin A; 120 (gama) vitamin B1, 30 (gama) vitamin B2, 10 mg vitamin C. 100g Actisô cung cấp cho cơ thể 50-70 calo.
Trong lá cây có một chất kết tinh, thường là phức hợp với calcium, magnesium, kalium, natrium, là một glucosid mà người ta gọi là Cynarin, có công thức C25H24O12. H2O mang hai phân tử acid cafeic và một phân tử acid quinic. Trong lá tươi ngoài Cynarin, có một tannoid, hai heterosid flavonic là cyanosid và một chất khác không tan trong ete gọi là scolymosid. Các hợp chất polyphenol có trong lá non nhiều hơn lá già, ở phiến lá nhiều hơn cuống lá, ở chóp lá nhiều hơn gốc lá. Từ năm 1956 người ta tổng hợp được Cynarin.
6. Tính vị, tác dụng: Bông Actisô có tính bổ dưỡng khi đã nấu chín, tăng lực, kích thích, làm ăn ngon, bổ gan (tiết mật), trợ tim, lợi tiểu, chống độc, gây tiết sữa cho phụ nữ nuôi con nhỏ. Actisô được biết từ lâu nhờ tác dụng lợi mật do Cynarin, người ta cũng xác định được hỗn hợp các thành phần khác của Actisô, chủ yếu là acid-acool tạo nên hoạt lực lợi mật của Actisô và còn có những tác dụng khác như giảm cholesterol-huyết, bảo vệ gan, làm tăng sự bài niệu. Ở người, Cynarin có tác dụng loại trừ các acid mật làm giảm cholesterol-huyết và lipoprotein.
Cây Actisô còn non có thể dùng luộc chín hay nấu canh ăn, những bộ phận thường được dùng làm rau là cụm hoa bao gồm đế hoa mang các hoa, các lông tơ và các lá bắc có phần gốc mềm màu trắng bao xung quanh. Người ta mang về, chẻ nhỏ theo chiều dọc từ 6-8 miếng, rồi đem hầm với xương, thịt để ăn cả cái và nước. Bông Actisô là loại rau cao cấp, khi nấu chín rất dễ tiêu hoá, dùng trị đau gan, giảm đau dạ dày, rất cần cho những người bị bệnh đái tháo đường.
7. Cách dùng: Sử dụng Actisô dưới nhiều dạng, có thể dùng tươi hoặc khô hâm uống hay nấu thành cao lỏng, cao mềm; còn có dạng chiết tươi bằng cồn hoặc làm cồn thuốc. Hiện nay trên thị trường có nhiều chế phẩm của Actisô: cao Actisô, trà Actisô, Cynaraphytol viên, thuốc ngọt Cynaraphytol, thuốc nước đóng ống Actisamin v.v…

Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2013

Cá diếc còn có tên khác là Tức ngư, phụ ngư

Là loại cá trắng nước ngọt, thân dẹt hai bên, dài 15 – 30cm; đầu và đuôi thuôn, miệng hướng lên trên, mắt có viền màu đỏ, lưng nhô cao. Vây lưng dài nhỏ dần về phía đuôi. Vây đuôi xòe hai thùy nhọn xiên bằng nhau. Toàn thân có màu bạc, bụng màu nhạt hơn phía lưng. Ở Việt Nam, cá diếc là loại sống phổ biến ở ao hồ, ruộng vùng đồng bằng hay vùng cao.


Thành phần hóa học: Thịt cá chứa 17,7% protid; 1,8% lipid; 70 mg% calci; 152 mg% phospho; 0,8mg% sắt; vitamin B1, B6­. Cá diếc vị ngọt, tính ấm, không độc, vào tỳ vị, đại tràng; tác dụng bổ tỳ vị, hành thủy, tiêu thũng, tiêu khát, sát khuẩn. Mật có vị đắng, tính lạnh.
Công năng chủ trị: Kiện tỳ, lợi thấp, khai vị, hạ khí thông nhũ, thanh nhiệt giải độc. Dùng cho các trường hợp suy nhược, mỏi mệt ăn kém, tiêu chảy, kiết lỵ, phù, đại tiểu tiện xuất huyết.
Liều dùng cách dùng: 200 – 250g, dưới dạng nấu, hầm, chiên, nướng.
Kiêng kỵ: Các chứng bệnh có urê huyết cao, hôn mê gan không nên ăn cá diếc.
Y học dân gian Việt Nam dùng cá diếc
trong y thực trị:
- Cá diếc nấu với rau má mơ (rau má họ), ăn hàng ngày chữa đau gan vàng da.
- Cá diếc nấu với rau rút làm canh, ăn hàng ngày chữa biếng ăn.
- Cá diếc nấu với đậu đỏ hoặc vỏ bí đao chữa phù thũng.
- Cá diếc nấu với nấm hương làm tăng tiết sữa cần cho phụ nữ sau sinh.
- Cá diếc bỏ ruột, cho ít phèn chua (cục nhỏ), đốt tồn tính, tán mịn. Ngày uống 10g chia 2 lần. Chữa trẻ em bị phù, kiết lỵ ra máu.
- Cá diếc làm sạch, cho lá chè non vào đầy bụng, nướng chín. Ăn cả cá và lá chè. Chữa bệnh đái tháo đường (thể uống nước nhiều).
- Bột cá diếc 5g, bột gừng 3g, bán hạ chế 3g chữa viêm phế quản mạn tính.
Một số thực đơn chữa bệnh có cá diếc trong y học phương Đông:
Canh cá diếc củ cải: Cá diếc 200g, cải củ 200g, cà rốt 200g, nước bột đậu 1500 – 2000ml. Cá diếc cắt khúc, cải củ, cà rốt thái lát. Nước bột đậu nấu sôi, thả cá khúc vào, thêm cải củ, cà rốt, gừng, hành tươi đập dập và gia vị hầm nhừ. Khi ăn thêm tương dấm hoặc vắt chanh (nếu có thể cho khế cùng hầm). Ăn khi đói. Dùng cho các trường hợp đầy bụng, lạnh bụng không tiêu, ăn kém, suy nhược cơ thể.
Cá diếc hầm sa nhân cam thảo: Cá diếc 1 con, sa nhân 8g, cam thảo 4g. Sa nhân, cam thảo giã vụn cho vào bụng cá (đã làm sạch bỏ ruột) khâu lại. Không cho ớt, muối mắm, cho các gia vị khác và nước hầm nhừ. Ăn liên tục đợt 3 tuần. Dùng cho bệnh nhân phù thũng toàn thân.
Cá diếc hầm chân giò: Cá diếc 200g, giò heo 1 cái, thông thảo 10g, thêm nước gia vị hầm nhừ, bỏ bã thông thảo. Dùng cho bệnh nhân ít sữa, tắc sữa.
Cá diếc hầm đậu đỏ: Cá diếc 200g, xích tiểu đậu 100g. Hầm nhừ, thêm gia vị nhưng hạn chế muối. Dùng cho các trường hợp phù nề tay chân (cước khí), phụ nữ có mang phù nề; còn có tác dụng an thai.
Canh cá diếc sa nhân: Cá diếc to 2 con, sa nhân 4g, trần bì 3g, lá lốt, ớt, cá diếc làm sạch bỏ ruột để cho róc nước khô; sa nhân tán bột, trần bì tán bột, lá lốt, ớt, gừng, hành, tỏi, bột tiêu lượng thích hợp, thêm muối trộn đều cho trong bụng cá. Dùng dầu lạc chiên rán cá trên chảo cho chín vàng, gắp ra để cho khô. Trên bếp chảo nóng có dầu rán, cho gừng hành cho thêm nước dùng gia vị thả cá vào, cho nước dùng sôi đều. Cho ăn vào các bữa ăn. Dùng cho các trường hợp tỳ vị hư nhược, đầy trướng bụng, ăn kém hoặc đau quặn bụng, tiêu chảy.
- Cá diếc 500g, tương 100ml, nghệ 50g. Cá mổ bỏ ruột, rửa sạch cho vào xoong (nồi đất); nghệ gọt bỏ vỏ đen, đập rập, băm nhỏ, rải lên trên, có thể cho thêm quả sung bổ đôi hoặc khế thái lát; đổ tương và khoảng 1500ml nước (mùa đông thay bằng 200g dưa muối và 1500ml nước dưa). Đun sôi, đun nhỏ lửa đến khô. Phụ nữ nhiều địa phương dùng làm thuốc kích thích ăn uống trong bữa ăn, thuốc cung cấp canxi hữu cơ, là món ăn bổ huyết, dưỡng da làm cho da dẻ hồng hào, sắc mặt tươi tắn.
Cá diếc kho tương
Cá làm sạch ruột ướp gia vị theo ý thích. Gia vị gồm có nghệ giã nát, sả băm nhỏ, đường, hạt tiêu, ớt băm (hoặc để cả quả), tùy theo lượng cá mà cho gia vị. Củ riềng thái lát lót kín đáy nồi. Sau khi uớp khoảng ba mươi phút cho vào nồi, một lớp cá kế đến một lớp tương. Khi nồi cá sôi thì giảm lửa tối thiểu, liu riu cho cá mềm cả thịt lẫn xương. Mùi vị rất thơm ngon.
Cá diếc nấu rau răm
Nguyên liệu: 3 con cá diếc (tùy lượng người ăn). Một ít rau sam, rau răm, ớt tươi (xanh). Cách chế biến như sau: Cá diếc rửa sạch, ướp tiêu, hành, muối, để 30 phút. Cho nước vào nồi đun sôi (tùy lượng cá và khẩu phần ăn), thả cá vào, khi cá chín cho rau sam. Tắt bếp cho rau răm, ớt xanh dập dập vào, thêm nước mắm ngon vừa. Ăn nóng.

Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

HẠNH NHÂN

(Semen Pruni Armeniacae)


 

Hạnh nhân tức là hạt khô của quả của cây Mơ, có nhiều loại có tên thực vật học khác nhau, như cây Sơn hạnh Prunus Armeriaca L var ansu Maxim, Hạnh Siberia Prunus sibinca L, Hạnh Đông bắc Prunus mandshurica (Maxim) Koenae hoặc cây Hạnh Prunus armenicaca L đều thuộc họ Hoa Hồng (Rosaceae). Hạnh nhân còn có tên là Ô mai, Hạnh, Khổ Hạnh nhân, Bắc Hạnh nhân, Quang Hạnh nhân, dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Bản kinh.


Cây Mơ mọc hoang và được trồng nhiều ở nước ta, nhiều nhất là các tỉnh Hà sơn bình (Mỹ đức), Hà nam ninh (huyện Kim bảng), Thanh hóa, Nghệ an, Hà tỉnh, Trung quốc, Armenia, Nhật bản cũng có cây Mơ.
Cách chế biến: Mùa hè, hái quả chín về, bỏ hết thịt và vỏ của nhân, lấy nhân phơi khô, lúc dùng đập vụn.
Khổ hạnh nhân là cho Hạnh nhân vào nước sôi trong ít phút lấy ra ngâm nước lạnh, bỏ vỏ phơi khô.
Sao Hạnh nhân là bỏ Khổ Hạnh nhân vào nồi, cho lửa nhỏ sao vàng.
Hạnh nhân sương là dùng giấy thấm bọc ép cho lấy hết dầu.
Tính vị qui kinh:
Hạnh nhân vị đắng hơi ôn, có độc ít, qui kinh Phế, Đại tràng.
Theo các sách thuốc cổ:
  • Sách Bản kinh: vị ngọt ôn.
  • Sách Danh y biệt lục: đắng có độc.
  • Sách Cảnh nhạc toàn thư – Bản thảo chính: vị đắng cay, hơi ngọt.
  • Sách Thang dịch bản thảo: nhập thủ thái âm kinh.
  • Sách Trấn nam bản thảo: nhập 2 kinh Tỳ phế.
  • Sách Lôi công bào chế dược tính giải: nhập 2 kinh Phế Đại tràng.
Thành phần chủ yếu:
Nhân hạt mơ chứa: 35 – 40% chất dầu ( dầu Hạnh nhân), 3% amygdalin và men emunsin gồm 2 men amygdalase và prunase.
Tác dụng dược lý:
A.Theo Y học cổ truyền:
Hạnh nhân có tác dụng chỉ khái bình suyễn, nhuận tràng thông tiện.
Chủ trị các chứng ho do phong hàn hoặc phong nhiệt, ho suyễn do phế nhiệt, táo bón do tràng táo.
Trích đoạn Y văn cổ:
  • Sách Bản kinh: ” chủ khái nghịch thượng khí, hầu tý, hạ khí, săn nhũ”.
  • Sách Dược tính bản thảo: ” chủ khái nghịch thượng khí suyễn thúc, cùng Thiên môn đông sắc uống nhuận tâm phế hòa nước qua làm thang nhuận thanh khí”.
  • Sách Trân châu thang: ” trừ phế nhiệt, trị phong nhiệt ở thượng tiêu, lợi hung cách khí nghịch, nhuận đại tràng khí bí”.
B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
  1. Glucosid hạt mơ thủy phân cho cyanhydric acid có tác dụng ức chế nhẹ trung khu hô hấp vì thế giảm ho suyễn.
  2. Benzaldehyde có thể ức chế chức năng tiêu hóa của pepsin, dầu hạnh nhân có tác dụng nhuận tràng.
  3. Khổ hạnh nhân có tác dụng chống ung thư (các thí nghiệm chưa nhất trí).
  4. Thuốc có tác dụng ức chế lãi đũa, lãi móc câu, lãi kim, trực khuẩn thương hàn và phó thương hàn.
  5. Độc tính: Sau khi ăn vào, chất amygadalin và amygdalase kết hợp sinh ra prunasin và mandelonitrile bị phá hủy trong ruột sinh ra benzaldehyde và hydrocyanic acid rất độc.
Triệu chứng nhiễm độc: chóng mặt, mệt lã, nôn, tiêu chảy, đau bụng, nóng rát vùng thượng vị, huyết áp tăng, thở nhanh, nghiêm trọng hơn thở nông chậm, hôn mê, cứng người, co giật, giãn đồng tử, huyết áp hạ, suy hô hấp tuần hoàn dẫn đến tử vong.
Người lớn ăn 40 – 60 nhân, trẻ em10 – 20 nhân có thể gây nhiễm độc nghiêm trọng. Uống Anhydric acid, liều gây chết là 0,06g ở người lớn.
Thuốc được nấu lên và có cho đường giảm bớt độc. Trường hợp quá liều có thể cho uống than hoạt hoặc sirô. Trong dân gian dùng vỏ cây mơ hoặc vỏ của rễ làm chất giải độc.
Ứng dụng lâm sàng:
1.Trị viêm phế quản mạn tính:
  • Dùng nhân có vỏ với cùng lượng đường phèn trộn làm thành Hạnh nhân đường. Sáng tối mỗi lần uống 10g; 10 ngày là một liệu trình. Đã trị 124 ca, khỏi 23 ca, có kết quả tốt 66 ca, tiến bộ 31 ca, không kết quả 4 ca, tỷ lệ kết quả 96,8%, đối với ho đàm suyễn đều có tác dụng, thường sau 3 – 4 ngày thấy có kết quả ( Tư liệu của Viện Nghiên cứu Trung y 1971,34).
  • Chua me đất 5g, Lá chanh 4g, Cam thảo dây 5g, Lá tre 8g, Tô mộc 8g, Gừng sống 2g, Ô mai 4g, nước 500ml sắc còn 250ml chia 2 lần uống trong ngày. Trị ho lâu ngày khản tiếng, viêm họng, viêm phế quản.
  • Hạnh tô tán (ôn bệnh điều biện) : Khổ hạnh nhân 6g, Tô diệp, Cát cánh, Chỉ xác, Quất bì, Pháp Bán hạ, Sinh khương đều 6g, Phục linh, Tiền hồ đều 10g, Đại táo 2 quả, sắc uống.
  • Hạnh nhân tiễn: Hạnh nhân ngọt (Điềm hạnh nhân) 100g, nước gừng tươi 150g, Tang bì, Bối mẫu, Mộc thông đều 40g, Tử uyển, Ngũ vị tử đều 30g, sắc cô thêm mật ong thành cao, mỗi lần uống 1 thìa canh, ngày 2 lần. Trị ho lâu ngày khàn giọng.
2.Trị táo bón:
  • Nhuận tràng hoàn: Hạnh nhân, Đào nhân, Đương qui đều 10g, Hỏa ma nhân 12g, Sinh địa 12g, Chỉ xác 6g sắc uống.
  • Hạnh nhân, Hỏa ma nhân, Bá tử nhân đều 10g, sắc nước uống. Trị táo bón người cao tuổi và người sau sanh.
3.Trị viêm âm đạo do trùng roi (trichomonas):
  • Trị 6 ca viêm âm đạo do trùng roi bằng cách đắp nước Hạnh nhân kết quả đều tốt, 120 ca viêm âm đạo khác cũng được đắp bằng cao Hạnh nhân với dầu mè và lá dâu hàng ngày kết quả tốt trên 90% thông thường viêm hết trong vong 1 tuần.
Liều thường dùng và chú ý:
  • Liều: 3 – 10g, thuốc sắc nên cho sau.
  • Sao Hạnh nhân trị ho không dùng trị táo bón.
Quả hạnh tốt cho nam giới
Tờ tạp chí Esquire của Mỹ dẫn một cuộc nghiên cứu cho thấy quả hạnh rất giàu một loại axít amino gọi là arginine, có công dụng làm dịu căng thẳng mạch máu và cải thiện tuần hoàn máu.
Loại hạt này còn có thể tăng cường khả năng tình dục ở quý ông. Bên cạnh đó, các chuyên gia khuyên các ông nếu muốn có được đời sống tình dục viên mãn nên giảm vòng bụng, tăng cường tập các động tác ở phần bụng dưới và giảm lượng cholesterol trong máu. Ngoài quả hạnh, các thực phẩm giàu arginine gồm đậu, cá hồi và lúa mì.

Nước bông cải xanh giải độc, đẹp da

Theo các nghiên cứu khoa học thì những loại thức uống màu xanh đặc biệt là nước bông cải xanh rất tốt cho sức khỏe lẫn sắc đẹp. Chính vì vậy nên tạo thói quen uống mỗi ngày một cốc nước để mang lại những lợi ích thiết thực nhất cho cơ thể.

Hãy đến với chuyên mục làm đẹp của Eva.vn để tìm hiểu những bí quyết chăm sóc da, làm đẹp da, làm đẹp tóc, các kiểu tóc hợp thời trang, hay bí quyết trang điểm… hiệu quả nhất cho mọi phụ nữ.
Nước bông cải xanh rất giàu vitamin như vitamin A, B, C và E. Ngoài ra nó còn chứa đựng rất nhiều chất quan trọng như canxi, kẽm, đồng, sắt, chất antioxidant và chất xơ. Chính vì mang trong mình những loại chất dinh dưỡng đặc biệt quan trọng và hữu ích như vậy nên nước bông cải xanh thực sự là một thức uống thần kì cho một cơ thể khỏe mạnh và lưu giữ một vẻ thanh xuân rạng rỡ.
Nước bông cải xanh thực sự là một thức uống thần kì cho một cơ thể khỏe mạnh và lưu giữ một vẻ thanh xuân rạng rỡ.

Mỗi ngày uống một cốc nước bông cải xanh, hệ thống tiêu hóa của bạn sẽ làm việc hiệu quả hơn. Nó sẽ ngăn chặn những triệu chứng có hại và gây khó chịu cho cơ thể như nồng độ axit cao, ợ nóng hay đau dạ dày.
Với khả năng cung cấp một lượng canxi lớn, nước bông cải xanh sẽ là thức uống hữu dụng cho xương chắc khỏe mỗi ngày. Và trên thực tế thức uống này không hề thua kém bất kì loại sữa có khả năng cung cấp canxi cho cơ thể bạn. Ngoài ra, người ta còn sử dụng nước bông cải xanh như một phương pháp hiệu quả để ngăn chặn mức độ cholesterol đang tăng cao và có khả năng gây hại cho cơ thể.
Là phương thuốc tự nhiên diệu kì ngăn chặn sự tấn công của ung thư như ung thư tuyến tiền liệt hay ung thư da…
Chất antioxidant có trong nước ép bông cải xanh còn được xem là phương thuốc tự nhiên diệu kì ngăn chặn sự tấn công của ung thư như ung thư tuyến tiền liệt hay ung thư da…  Như chúng ta đã biết thì nguyên nhân gây ung thư da đó là sự tác động của các tia tử ngoại UV có hại. Trong trường hợp này thì nước bông cải xanh sẽ tiết ra một chất enzyme để bảo vệ da và làm giảm khả năng tấn công của các tia tử ngoại đó lên bề mặt da.
Thông thường trong cơ thể chúng ta luôn tồn tại các chất độc tố do các nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nếu những chất độc tố này không được bài trừ ra khỏi cơ thể thì đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng cơ thể bị suy nhược, stress hay cụ thể nhất là các biểu hiện trên da mặt như mọc mụn, tóc khô xơ…  Và lúc này bạn có thể nghĩ đến nước bông cải xanh như một biện pháp hữu hiệu để đẩy lùi những chất độc này và bảo đảm cho một cơ thể khỏe mạnh cũng như một sắc mặt tươi tắn, hồng hào.
Nước ép bông cải xanh bảo đảm cho một cơ thể khỏe mạnh cũng như một sắc mặt tươi tắn, hồng hào.
Nếu nhiều khi bạn cảm thấy mình bị chóng mặt, hay đau đầu hay biểu hiện ở da mặt xanh xao, thiếu sức sống do thiếu máu thì lượng sắt có trong nước bông cải xanh sẽ giúp bạn đẩy lùi được những triệu chứng này. Và tất nhiên không có người phụ nữ nào lại muốn sở hữu một nước da xanh èo uột, kém tươi tắn và khó trang điểm như vậy.
Mắt sáng nhờ bông cải xanh
Làm việc nhiều bên máy vi tính, tiếp xúc thường xuyên với ánh nắng mặt trời… đều là những nguyên nhân khiến mắt ngày càng mệt mỏi và mờ dần đi.
Bên cạnh việc ngủ đủ giấc để mắt hồi phục thì bạn có thể bổ sung các dưỡng chất quan trọng cho mắt bằng cách ăn thêm nhiều các loại rau xanh, cam quýt… đặc biệt là bông cải xanh.
Từ trước đến nay, cà rốt được xem là loại củ giàu beta-carotene nhất nhưng không phải là loại thức ăn tốt nhất cho đôi mắt của bạn. Ngoài cà rốt thì rau bina, cà chua, xoài và bông cải xanh cũng là những loại giàu beta-carotene – thành phất chất này rất quan trọng giúp cơ thể tổng hợp và chuyển hóa thành vitamin A. Vitamin A có tác dụng bảo vệ võng mạc và thủy tinh thể từ sâu trong gốc rễ.
Bông cải xanh rất giàu beta-carotene, có tác dụng bảo vệ võng mạc và thủy tinh thể.
Đặc biệt bông cải xanh là một trong những loại thực phẩm giàu dinh dưỡng và có tác dụng bảo vệ mắt tốt nhất trong các loại rau xanh mặc dù với nhiều người nó không phải là loại thức ăn ưa thích.
Trên thực tế ở những loại rau xanh có nhiều lá và ngũ cốc có chứa những thành phần chất quan trọng cốt lõi để giảm nguy cơ mắc chứng bệnh đục thủy tinh thể và sự thoái hóa các chức năng khác của mắt – đó là những nguyên nhân chính khiến võng mạc bị tổn hại và suy kiệt dần. Nguy cơ này thường xảy ra ở những trưởng thành, khiến mắt họ ngày càng mờ dần đi.
Thường xuyên bổ sung rau xanh cho bữa ăn để đôi mắt bạn được sáng và linh hoạt hơn.
Chất chống oxy hóa có trong vitamin C và vitamin E sẽ bảo vệ các tế bào mắt trước sự tác động của ánh nắng mặt trời.
Các loại quả thuộc họ cam quýt là nơi cung cấp lượng vitamin C lớn, ngoài ra còn có nguồn vitamin E ở các loại hạt, quả và rau chứa nhiều dầu.
Như vậy để bảo vệ mắt hàng ngày, bạn phải bổ sung ngay cho cơ thể các loại rau xanh, hoa quả đặc biệt là bông cải xanh để ngăn chặn một cách tốt nhất các nguy cơ gây tổn hại cho mắt. Có như vậy mới đảm bảo được sức khỏe lâu dài cho một đôi mắt sáng và linh hoạt.
Đẩy lùi’ đột quỵ nhờ bông cải xanh
Các nhà nghiên cứu khẳng định bông cải xanh chứa các thành phần có lợi cho sức khỏe, bao gồm cả việc ngăn chặn được một cơn đau tim hay đột quỵ.
Sulforaphane, một chất có trong bông cải xanh có thể giúp tăng cường hệ thống miễn dịch của cơ thể, ngăn không cho động mạch bị tắc. Cải hoa, cải bruxen, cải bắp và cải lông cũng chứa thành phần trên nhưng liều lượng trong bông cải xanh là cao nhất.
Giáo sư Peter Weissberg, giám đốc y tế Tổ chức Tim Anh quốc, hỗ trợ cho nghiên cứu trên, cho biết: “Không chỉ cung cấp thêm thông tin hỗ trợ cho việc lựa chọn thực phẩm dinh dưỡng, nghiên cứu này còn có thể dẫn tới các thành tựu khác về y tế trong việc ngăn chặn hay giảm nhẹ nguy cơ đột quỵ”.
Sulforaphane, một chất có trong bông cải xanh có thể giúp tăng cường hệ thống miễn dịch của cơ thể.
Theo các nhà khoa học, động mạch nhánh của cơ thể rất dễ bị tổn thương bởi thiếu protein Nrf2. Ngược lại, động mạch chính lại được bảo vệ bởi loại protein này, có thể ngăn chặn các tế bào khỏi viêm nhiễm, một dấu hiệu sớm của các cơn đau tim.
Nghiên cứu chỉ ra rằng, sulforaphane có thể tái tạo Nrf2 tại các khu vực nguy hiểm của động mạch, giúp tăng cường khả năng chống viêm của động mạch, do vậy, có thể ngăn chặn quá trình đột quỵ.
Bác sĩ Paul Evans, đến từ Viện Phổi và Tim, ĐH Imperial, London, đứng đầu nhóm nghiên cứu, cho biết: “Sulforaphane được tìm thấy nhiều ở bông cải xanh, đây là chất có thể tái tạo Nrf2, giúp cơ thể con người tránh khỏi viêm nhiễm dẫn đến đột quỵ. Chúng tôi đang tìm hiểu xem các loại rau khác có hàm lượng chất bảo vệ cao như vậy nữa không”.
Nên ăn brocoli như một loại rau sống là tốt nhất vì khi nấu chín sẽ mất tác dụng chống ung thư.
Các tác dụng đối với sức khỏe của bông cải xanh đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu. Bông cải xanh có nhiều chất chống lão hoá như vitamine C, E và beta-carotene và giàu chất xơ, giúp giảm nguy cơ ung thư, đặc biệt là ung thư đại tràng; giàu chất sắt và acide folique giúp chống lại chứng thiếu máu .
Những chất bổ dưỡng này và đặc biệt là chất acide folique rất quan trọng cho những phụ nữ mang thai . Thiếu acide folique trong khi mang thai có thể sinh ra con bị chứng nứt đốt sống .
Nên ăn brocoli như một loại rau sống là tốt nhất vì khi nấu chín sẽ mất tác dụng chống ung thư vì nhiệt độ cao sẽ phá huỷ enzyme và chất ESP, làm xáo trộn sự cân bằng của sulphoraphane. Ngoài ra, có thể hấp hay nấu bông cải xanh với ít nước và thật nhanh đủ để nó hơi mềm hoặc có thể cho hột brocoli mọc mầm.
Phòng ngừa các bệnh ung thư hữu hiệu
Hội Ung thư Hoa Kỳ khuyến cáo với những người bị ung thư, nên đưa bông cải xanh vào chế độ ăn hàng ngày để giảm nguy cơ ung thư.
Sulforaphane là một hợp chất hữu cơ  hóa học đã được chứng minh để ức chế sự phát triển của các tác nhân gây ra ung thư. Sulforaphane được tìm thấy nhiều trong các loại rau họ cải và đặc biệt chúng có rất nhiều trong bông cải xanh.
Trong một nghiên cứu tại trường Y ở Mount SinaiNew York, kết quả nghiên cứu đã chứng minh sulforaphane có tác động tối ưu trong việc hạn chế tăng trưởng tế bào ung thư buồng trứng.
Chất isothiocyanate nhiều trong bông cải xanh và các rau họ cải khác cũng có thể làm giảm nguy cơ ung thư vú.
Nghiên cứu tiến hành tại trường Johns Hopkins of Medicine kết luận sulforaphane giúp ức chế vi khuẩn Helicobacter pylori – Đây là một nguyên nhân chính gây nhiễm trùng dạ dày. Các bệnh nhiễm trùng này được biết đây là nguyên nhân gây viêm dạ dày và loét dạ dày tá tràng, điều này cũng làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày.
Những nghiên cứu trên bệnh nhân ung thư tiền liệt tuyến cũng cho thấy, bông cải xanh và rau họ cải khác cũng có thể làm giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt hiệu quả. Những chất quang hóa hiện diện trong các loại rau họ cải cũng cho thấy có tác dụng phòng chống ung thư.
Một nghiên cứu tại cơ quan nghiên cứu ung thư ở Pháp cũng đã chứng minh hiệu quả  của việc tiêu thụ các loại rau họ cải với tác dụng phòng chống ung thư phổi.
Lượng rau họ cải cũng đã được biết đến với tác dụng làm giảm ung thư ruột và bàng quang.
Hạ chỉ số đường huyết (GI)
Trong một nghiên cứu để xác định GI của những thực phẩm khác nhau, bông cải xanh đã được kết luận có chỉ số đường huyết GI thấp là 15.
Bông cải xanh, loại rau giàu dinh dưỡng cho bé
Tại sao bông cải xanh lại tốt cho trẻ?
Bông cải xanh (còn gọi là xúp-lơ xanh) rất giàu dinh dưỡng:
• Các vitamin C, A (từ beta-carotene), K và các vitamin nhóm B
• Vi & khoáng chất : chất xơ, canxi, sắt, axit folic, omega-3, selen, kẽm, đạm thực vật
Thật ấn tượng đúng không?Ngoài các chất dinh dưỡng nêu trên, bông cải xanh còn có các chất thuộc nhóm phyto, một trong số đó là sulforaphane – một chất chống ung thư rất hiệu quả. Có rất nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng chế độ ăn nhiều bông cải xanh có thể bảo vệ cơ thể khỏi ung thư và có lợi cho tim và dạ dày.
Bông cải xanh còn nhiều những lợi ích khác cho bé yêu của bạn:
Nguyên tố vi lượng sắt và canxi có vai trò thiết yếu với sự phát triển khỏe mạnh của trẻ sơ sinh, lượng vitamin C dồi dào trong bông cải xanh sẽ giúp cơ thể bé hấp thu tốt nhất các chất trên.
Ngoài ra, bông cải xanh còn có thể giúp tăng cường hệ miễn dịch cho bé – trong khi virus H1N1 là mối nguy hiểm hàng đầu, việc tìm kiếm loại thực phẩm giúp tăng cường miễn dịch có nguồn gốc tự nhiên trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Bông cải xanh còn có đặc tính chống dị ứng có thể giúp giảm thiểu một số nguy cơ và điều kiện gây dị ứng nhất định như hen suyễn.
Bạn thấy đấy, bông cải xanh có thể coi là “siêu thực phẩm” dành cho bé yêu đấy chứ? Và ngoài ra đừng quên rằng hàm lượng axit folic cao rất quan trọng trong giảm thiểu nguy cơ mắc dị tật bẩm sinh của thai nhi.
Khi nào bé có thể ăn bông cải xanh?
Có một số ý kiến cho rằng không nên sử dụng bông cải xanh làm thức ăn cho bé vì nó có hàm lượng nitrat cao. Tuy nhiên các nhà dinh dưỡng đã chỉ ra rằng: “Trẻ sơ sinh được bố mẹ cho ăn thực phẩm bán sẵn thường không gặp phải nguy cơ ngộ độc nitrat. Tuy nhiên, không nên sử dụng thực phẩm tự nấu từ rau củ quả ví dụ như rau bó xôi, củ cải đường, đậu xanh, bí đỏ, cà rốt) cho bé dưới 3 tháng tuổi. “
Một số bà mẹ vẫn muốn đợi con tròn 8 tháng tuổi mới cho ăn bông cải xanh. Tuy nhiên thông thường có thể nấu bông cải xanh cho bé ăn từ 6 tháng tuổi, vì khi đó bé đã có thể ăn các loại rau quả rồi.
Bông cải xanh không thuộc nhóm thực phẩm dễ gây dị ứng, tuy nhiên bạn vẫn nên cho con ăn từ từ, lượng từ ít đến nhiều, theo dõi phản ứng của con. Như thế nếu bé có bị dị ứng hoặc tiêu hóa không tốt thì có thể dễ dàng phát hiện nguyên nhân.
Chú ý: Không nên sử dụng bông cải xanh cho bé dưới 6 tháng tuổi hay sử dụng bông cải xanh làm loại thức ăn thô đầu tiên cho bé bởi vì nó có thể gây đầy bụng
Bông cải xanh có thể gây đầy bụng?
Bông cải xanh giống như các loại rau dạng bông khác có thể sinh ra khí, gây đầy bụng không chỉ với trẻ mà còn cả người lớn. Bông cải xanh chứa một loại đường được gọi là raffinose. Cơ thể chúng ta không thể tiêu hóa được loại đường này cho nên khi đi đến ruột, vi khuẩn sẽ lên men đường và thải ra khí metan.
Tuy vậy đây chỉ là một nhược điểm nhỏ có thể khắc phục theo các bước dưới đây:
- Đầu tiên, hãy ghi nhớ rằng cơ thể mỗi bé khác nhau cho nên cách chúng “xử lý” một số loại thực phẩm cũng khác nhau. Có bé bị đầy hơi cũng có bé không bị đầy hơi khi ăn bông cải xanh.
- Sau 6 tháng tuổi, một chút khí gas có thể không gây khó chịu với bé. Có bé ăn bông cải xanh từ lúc 6 tháng rưỡi, nay đã được 10 tháng, mẹ bé để ý có thấy bé hơi bị sôi bụng, nhưng hiện tượng này không gây đau cho bé. Đối với những bé dưới 6 tháng tuổi, khí trong bụng có thể khiến bé khóc rất nhiều vì không thể xì ra được. Những bé lớn hơn, vận động nhiều hơn nên sẽ không gặp phải vấn đề này. Bố mẹ có quyền lựa chọn thực phẩm cho con. Nếu như cơ địa bé có vấn đề về tiêu hóa, hãy đợi đến khi con được 1 tuổi mới cho con ăn bông cải xanh.
- Lần đầu tiên chỉ cho bé ăn một lượng nhỏ bông cải xanh. Sau đó tăng dần lên trong mỗi bữa, như thế bạn có thể theo dõi phản ứng của bé và cơ thể bé có điều kiện làm quen với loại thức ăn mới. Việc thử một loại thức ăn có thể tạo khí gas có khi lại giúp cơ thể bé học cách tiêu hóa thức ăn hiệu quả hơn.
- Thử thêm một lát gừng tươi gọt vỏ vào nồi khi nấu bông cải xanh hoặc một chút bột gừng vào súp của bé. Gừng hỗ trợ rất tốt cho tiêu hóa và giảm khí trong ruột – nhưng cũng phải áp dụng quy tắc sử dụng thức ăn mới cho lần đầu tiên ăn gừng.
- Hãy bổ sung cho ruột bé những vi khuẩn có ích nhằm hỗ trợ tiêu hóa. Cách đơn giản nhất là cho bé ăn sữa chua.
Chọn và bảo quản bông cải xanh như thế nào?
Khi bạn mua bông cải xanh, hãy chú ý đến màu sắc. Bông cải xanh ngon sẽ có màu xanh thẫm hoặc tím thẫm tùy loại. Nếu bông cải xanh có màu hơi vàng hoặc thậm chí còn có chút hoa vàng ở bông thì đó là bông cải xanh già. Không nên chọn bông cải xanh già với hai lý do:
- Giá trị dinh dưỡng của bông cải xanh giảm dần theo thời gian, thế nên quả màu vàng thì sẽ ít dinh dưỡng hơn bông cải xanh non màu xanh.
- Ngoài ra, bông cải xanh chứa đường tự nhiên, khi già đi, nó sẽ chuyển hóa thành lignin – là loại chất xơ thô rất khó ăn. Bông cải xanh non thì ngược lại, rất mềm và ngọt.
Bảo quản bông cải xanh trong túi nilon để mở trong tủ lạnh – nhiệt độ tủ lạnh sẽ giúp lưu giữ hàm lượng vitamin C. Không rửa trước khi bảo quản vì sẽ làm bông cải xanh nhanh thối, sử dụng trong vài ngày. Nếu bảo quản bông cải xanh quá lâu sẽ làm hỏng vị ngọt tự nhiên của nó.
Có thể cấp đông bông cải xanh dùng làm thực phẩm cho bé không? – Bông cải xanh là rau nên tốt nhất là ăn tươi. Nhưng nếu khó mua bông cải xanh ở chợ gần nhà, bạn cũng có thể cấp đông.
Nấu bông cải xanh cho bé như thế nào?
Bông cải xanh là một trong những loại rau thường bị nấu quá kỹ. Điều này không những làm hỏng vị mà còn làm giảm đáng kể giá trị dinh dưỡng. Các chất dinh dưỡng có trong bông cải xanh tan trong nước cho nên chúng sẽ hòa tan vào nước trong quá trình nấu. Vậy phải chọn cách nấu sao cho có thể giữ được tối đa chất dinh dưỡng.
Chú ý: Bông cải xanh có thể ăn sống, đây là cách tốt nhất để hấp thu toàn bộ dưỡng chất, tuy nhiên bé còn nhỏ thì chưa thể ăn được.
Cách chế biến bông cải xanh
1. Rửa sạch.
2. Cắt bỏ đầu thân rau.
3. Gọt lớp vỏ ngoài thân nếu cần.
4. Cắt vừa miếng.
*5. Có thể hấp hoặc luộc với một ít nước. Đun từ 3-5 phút cho mềm và vẫn giữ màu xanh sáng.
Chế biến súp bông cải xanh cho bé: Xay bông cải xanh đã nấu chín, thêm một chút nước hoặc sữa công thức/sữa mẹ để làm loãng nếu cần. Bạn có thể cấp đông súp bông cải xanh, sử dụng trong vòng một tháng.
Gợi ý chế biến bông cải xanh cho bé
Nếu bé nhà bạn không thích bông cải xanh, hãy kết hợp với thực phẩm khác mà bạn biết chắc bé sẽ thích, đây là một số gợi ý cho bạn:
• Thử nấu súp bông cải xanh với đậu, khoai lang, bí đỏ, cà rốt.
• Kết hợp bông cải xanh nghiền với nước ép táo hoặc táo nghiền hoặc lê chín nghiền. Súp sẽ có vị chua ngọt rất lạ.
• Cắt nhỏ bông cải xanh đã nấu chín vào loại súp mà bé yêu thích.
• Thay vì luộc bông cải xanh với nước, hãy thử với một chút nước dùng, thay đổi vị biết đâu bé lại thích!
• Trộn bông cải xanh nấu chín với pho mát.
• Bông cải xanh nấu chín trộn phô mai hoặc trộn dầu oliu.

Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

Giàu vitamin nên quả ớt được cho là có ích trong việc điều trị nhiều bệnh. Sau đây là một số lợi ích từ quả ớt, theo báo The Times of India:

Bảo vệ mắt và da: Ăn ớt giúp chống phát ban, bảo vệ da. Do chứa nhiều vitamin A nên ăn ớt tốt cho mắt và giúp ngăn ngừa các bệnh về mắt.

Phòng chống ung thư: Ớt chứa hợp chất được gọi là capsaicin, có tác dụng ngăn chặn các chất sinh ung thư gây tổn hại cho ADN và bảo vệ cơ thể khỏi bệnh ung thư.

Quả ớt
Giảm đau: Chất capsaicin giúp chặn đứng quá trình truyền tải cơn đau từ da đến tủy sống, qua đó giúp giảm đau đớn. Nó rất hữu ích trong điều trị các bệnh liên quan đến đau đớn.
Đốt cháy calo: Ăn ớt giúp đẩy nhanh quá trình trao đổi chất và giúp đốt cháy nhiều calo. Ớt còn có tác dụng giảm béo do chế độ ăn uống nhiều chất béo gây ra. Ăn ớt giúp tăng tiết dịch tiêu hóa, ngừa chứng khó tiêu. Chứa nhiều chất tốt cho tim mạch, ớt còn giúp điều hòa huyết áp, giảm cholesterol xấu và chất béo gây hại triglyceride trong cơ thể.
Giúp mọc tóc: Chiết xuất từ ớt là một trong những sản phẩm kích thích tóc mọc tốt nhất. Nó có tác dụng ngừa rụng tóc, giúp duy trì mái tóc dày.

Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013

Trong dân gian, tầm xuân còn có nhiều tên khác như hồng dại, dã tường vi, thập tỉ muội… tên khoa học là Rosa multiflora Thunb, thuộc họ hoa hồng rosaceae. Hoa tầm xuân có nhiều màu hồng, đỏ, trắng vàng… nên được trồng ở nhiều nơi để làm cảnh.



Hoa tầm xuân
Trong Đông y, tất cả các bộ phận của cây tầm xuân được dùng làm thuốc (hoa, quả, lá, rễ), với các công dụng thanh nhiệt, lợi thấp, hoạt huyết, chỉ huyết, trừ phong, giải độc, tiêu viêm, giảm đau nhức. Thường dùng chữa chứng hoàng đản (vàng da), thuỷ thũng, lỵ, tiêu khát, bĩ tích, đái dầm. Hoa dùng chữa cảm nắng nóng mùa hè (trúng thử) nôn ra máu, chảy máu cam, rong huyết, rét cơn, bướu giáp, tiểu đường. Lá có tác dụng sinh cơ, chữa ung nhọt, viêm loét chi dưới, nhọt độc, phù nề. Rễ chữa hoàng đản, phế ung, chảy máu các loại, viêm khớp, liệt mặt, liệt nửa người do tai biến mạch máu não sau tăng huyết áp, ngứa lở ngoài da, lở loét miệng, bỏng…
Sau đây là một số bài thuốc có dùng tầm xuân
- Trúng thử (cảm nắng nặng): hoa tầm xuân sắc uống. Hoặc hoa tầm xuân 10g, hoa đậu ván trắng 10g. Sắc hoặc hãm nước sôi để uống.
- Sốt rét cơn. Hoa tầm xuân sắc uống.
- Ung nhọt (chưa vỡ): lá tầm xuân khô tán bột, nhào mật ong, dấm để đắp.
- Viêm loét chi dưới: lá tầm xuân nấu nước rửa.
- Phù thận: quả tầm xuân 3g, hồng táo 3 quả, sắc uống.
- Đau bụng kinh: quả tầm xuân 120g sắc uống.
- Liệt mặt, liệt 1/2 người: rễ tầm xuân 30g sắc uống.
- Chữa phong thấp teo cơ: rễ tầm xuân 20g sắc uống. Có thể phối hợp trong các bài thuốc Nam chữa thấp khớp.
- Đái dầm, tiểu đêm nhiều lần: rễ tầm xuân 30g sắc uống hoặc hầm với thịt lợn nạc để ăn. Có nơi dùng rễ tầm xuân sắc uống chữa bệnh đái tháo đường.
- Vàng da: rễ tầm xuân 15g hầm với thịt lợn nạc ăn.
Theo tài liệu của Nga. Hoa tầm xuân có tác dụng tương tự hoa hồng nên có thể thay thế cho nhau để chữa bệnh khi cần thiết.
Quả tầm xuân có lượng vitamin C cao gấp 50 lần quả chanh và 100 lần quả táo. Ngoài ra còn có nhiều B1, B2, phốt pho, kali. Để chữa cảm cúm viêm phổi tốt hơn thì có thể phối hợp 2 phần quả tầm xuân khô với 1 phần lá tầm ma (urtica dioica) khô. Sắc uống ngày 2 lần và mỗi lần 1/2 cốc cùng mật ong. Nếu phối hợp nước chiết quả tầm xuân với nước củ cà rốt thì ta có một hỗn hợp chứa đủ các vitamin cần thiết cho cơ thể.

Khế chua tiêu viêm, lợi tiểu

Cây khế có tên khác là ngũ liễm tử, ngũ lăng tử. Là cây gỗ thường xanh cao tới 10-12m. Lá kép lông chim, mỏng hình trái xoan nhọn. Cụm hoa ngắn, thành chùm xim, ở nách các lá, màu hồng hay tím. Quả to, tiết diệt hình ngôi sao 5 múi. Mùa hoa tháng 4 – 8, quả tháng 10 – 12. Trong múi khế chua, hàm lượng acid oxalic là 1%. Ngoài ra có những yếu tố vi lượng như Ca, Fe, Na và nhất là có nhiều vitamin K. Có các vitamin A,C, B1, B2 và P…

Trong y học cổ truyền thường sử dụng khế chua để chữa bệnh. Quả khế vị chua và ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu viêm, lợi tiểu, làm long đờm và tiết nước bọt. Rễ khế vị chua, tính bình; có tác dụng trừ phong thấp, giảm đau. Thân và lá vị chua và se, tính bình; có tác dụng tiêu viêm, lợi tiểu. Hoa vị ngọt, tính bình.

Một số bài thuốc thường dùng
- Chữa cảm sốt, nhức đầu, đi tiểu ít: Lá khế tươi 100g sao thơm, nấu với 750ml nước, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn. Hoặc dùng lá khế tươi 100g, lá chanh tươi 20 – 40g, hai thứ rửa thật sạch, giã nát, vắt lấy nước chia 2 lần uống trước bữa ăn.
- Chữa lở sơn, mày đay: Lá khế khoảng 20g rửa sạch cho vào nồi nấu nước uống. Lấy 1 nắm lá khế, rửa sạch giã lấy nước cốt đặp lên vùng da bị tổn thương.
- Chữa cảm cúm: đau người, hắt hơi sổ mũi, ho. Dùng 3 quả khế nướng vắt nước cốt hòa 50ml rượu để uống. Uống sau bữa ăn 30 phút.
- Chữa đái dắt, đái buốt: Dùng lá khế 100g, rễ cỏ tranh 40g. Cho 500ml nước đun nhỏ lửa còn 150ml nước, ngày một thang, chia 2 lần. Dùng liền 3 thang, sau đó tái khám. Mỗi liền trình có thể dùng 10 – 15 thang. Hoặc khế chua 7 quả, mỗi quả chỉ lấy 1/3 phía gần cuống. Nấu với 600ml nước, sắc còn 300ml, uống lúc còn ấm nóng.
- Chữa viêm họng: Lá khế 40g rửa sạch, thêm vài hạt muối giã nhỏ vắt nước cốt ngậm, ngày nhiều lần.
- Chữa ho do lạnh có đờm: Hoa khế 20g sao qua, sau đó tẩm nước gừng đem sao tiếp. Sắc lấy nước uống. Có thể thêm cam thảo nam 12g, tía tô 8 – 10g, kinh giới 8 – 10g. Cho 750ml nước, đun còn 300ml, chia 3 lần uống trong ngày. Dùng liền 6 ngày.

Rau cải bó xôi thuộc họ rau muối, là loại rau giàu dinh dưỡng, dễ dung nạp, dùng tốt cho mọi lứa tuổi. Rau cải bó xôi còn được dùng làm thuốc (phối hợp rau với thuốc) và có thể sắc lấy nước làm thuốc đơn thuần. Trong cải bó xôi có nhiều natri, kali, canxi, phospho, magnesi, sulfur, mangan, kẽm, sắt, đồng…; nhiều vitamin B, C, tiền vitamin A, B12 và protid, glucid, lipid, nước, chất xơ… Do trong rễ của cải bó xôi có chất glucosid tác dụng làm giảm mỡ cholesterol trong máu, rau cải bó xôi tính ngọt, mát nên cải bó xôi còn được dùng chữa tăng huyết áp. Ngoài ra còn có tác dụng làm sáng mắt, bổ âm huyết chữa thiếu máu, suy nhược cơ thể, thanh nhiệt tiêu độc, chống chảy máu…


Một số cách dùng cải bó xôi chữa tăng huyết áp:
Bài 1: Cải bó xôi 300g, gừng tươi 15g, hành 10g, xì dầu 10g, dầu vừng 10g, muối 6g, tỏi 5g. Tỏi, gừng giã nhuyễn vắt lấy nước, hành tỉa hoa, cải bó xôi rửa sạch, nhúng nước sôi vắt ráo. Cho tất cả vào trộn đều. Ngày ăn 2 lần với cơm. Công dụng: Bổ âm nhuận phế, hạ huyết áp, dưỡng huyết, chỉ huyết.
Bài 2: Cải bó xôi, sứa biển lượng tùy ý, dầu vừng, muối, gia vị một ít. Cải bó xôi rửa sạch nhúng vào nước sôi 2-3 phút rồi vớt ra. Sứa biển rửa sạch thái nhỏ nhúng qua nước sôi. Cả hai thứ cho vào bát, cho thêm dầu vừng, ít muối, gia vị trộn đều ăn. Công dụng: chữa huyết áp cao gây đỏ mặt (bốc hỏa), nhức đầu.
Bài 3: Cải bó xôi 250g, rau cần 250g, dầu vừng, gia vị vừa đủ. Cải bó xôi rửa sạch bỏ rễ, thái khúc nhúng vào nước sôi khoảng 2-3 phút rồi vớt ra, cho vào bát, thêm dầu vừng, gia vị vào trộn đều, ăn với cơm hoặc để nấu cháo. Công dụng: hạ huyết áp.
Bài 4: Cải bó xôi 300g, mực tươi 300g, tỏi 20g, xì dầu 10g, dầu 50g, hành 10g, muối 5g. Cải bó xôi rửa sạch cắt đoạn 5cm, mực tươi làm sạch cắt khúc 4cm. Đổ dầu vào chảo, phi thơm hành tỏi cho mực vào xào sơ rồi cho rau và các gia vị vào xào chín. Ngày ăn 1 lần với cơm. Công dụng: Bổ âm dưỡng huyết, chữa tăng huyết áp

Rau càng cua

Vị chua chua ngọt ngọt của dầu giấm quyện vào mùi thơm của thịt bò xào, vị béo ngậy của trứng và mùi hăng hăng đặc trưng của mớ rau càng cua mọc sau hè là món ăn khó quên…


Rau càng cua (Peperomia pellucid) họ hồ tiêu – Piperaceae. Rau thuộc loại thảo, thân chứa nhiều nước hơi nhớt, nhỏ và nhẵn, lá hình trái tim nhọn có màu xanh trong. Hoa mọc thành chùm dài ở đầu cây. Thuộc nhóm cây thân cỏ, sống thích hợp ở những nơi ẩm ướt, dưới chân tường, trên đá, thường khai hoa vào tháng giêng hay tháng 8 âm lịch, sức sống mạnh, hạt rất nhỏ nên dễ phân tán nơi xa, khi gặp điều kiện thích hợp sẽ lên cây và lan rộng ra.
Vị mặn, ngọt, chua, lẫn giòn giòn, dai dai của rau làm thành món rau trộn rất ngon. Rau càng cua còn có thể trộn chung với các loại rau khác như rau sam, rau thơm…, chấm với nước cá kho hay thịt kho. Chính vị chua chua của loại rau này khi chấm với nước kho mặn sẽ tạo cảm giác rất ngon miệng. Là loại rau giàu dinh dưỡng, đặc biệt beta-caroten (tiền vitamin A), nên thường được chế biến thành nhiều món ăn dân dã bổ dưỡng.
Ở các nước phương tây, người ta xem rau càng cua như một thứ cỏ dại. Người ta có thể nghiền lá ra dùng đắp trị sốt rét, đau đầu, dịch nhầy từ lá dùng uống trị đau bụng. Tại Trung Quốc, toàn cây rau này được dùng làm thuốc trị đau nhức khớp, đòn ngã và được vò nát đắp lên da trị phỏng do lửa hoặc nước sôi. Theo Đông y, rau càng cua vị đắng, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, hoạt huyết, tan máu ứ; thường dùng để chữa các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp, viêm ruột thừa, viêm gan, viêm dạ dày – ruột, tiêu hóa kém. Ngoài ra rau còn được dùng ngoài chữa rắn cắn, nhọt lở, chấn thương sưng đau, có tác dụng chữa trị bệnh ngoài da rất tốt, nhất là bệnh ghẻ lở (giã nát, vắt lấy nước, bổ sung chút muối và chấm vào vết thương; da sẽ mau lành, liền miệng). Cần tham khảo thêm ý kiến nhà chuyên môn khi sử dụng.Theo lương y Nguyễn Phước Thành, rau càng cua tuy cung cấp nhiều chất nhưng lại ít năng lượng, thích hợp cho người giảm béo, còn được dùng làm vị thuốc. Trong rau chứa nhiều chất sắt, giúp bổ sung cho người thiếu máu do thiếu sắt. Các chất kali, magiê trong rau tốt cho tim mạch và huyết áp cũng như góp phần trong việc chữa bệnh đái tháo đường, táo bón, cao huyết áp…
Lưu ý: trong khi sử dụng không được để nhựa mủ cây rau này bắn vào mắt.

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2013

Rau ngổ hay còn gọi là rau om, tên khoa học là Limmophila chinensis thuộc họ Scrophulariaceae. Rau thường mọc nhiều ở ao, rạch, mương và thường được trồng làm gia vị, nêm trong món canh chua, lẩu chua, giả cầy, phở, lươn um…

Để làm thuốc, người ta thường thu hái về rửa sạch, thái ngắn để dùng tươi hoặc phơi khô để dành. Rau ngổ có vị chua cay hơi se, tính mát, mùi thơm, trong cây có chứa nhiều tinh dầu (0,1%), chủ yếu là limonene, aldehyd perilla, monoterpenoid cetone, và cis-4-caranone, ngoài ra còn có các nhóm hợp chất coumarine và flavonoid có tác dụng kháng viêm và kháng khuẩn.


Rau ngổ – Ảnh: Thái Nguyên
Trong y học cổ truyền, rau ngổ được dùng để chữa trị sạn thận, làm thuốc lợi tiểu, chữa những cơn đau thắt bụng.
Một số nghiên cứu dược học tại Việt Nam cho thấy rau ngổ có độc tính không đáng kể và độ sử dụng an toàn khá cao, có tác dụng lợi tiểu, giãn cơ, chống co thắt.
Tác dụng giãn cơ làm mất cơn đau bụng, giãn mạch, tăng lọc ở cầu thận, tăng lượng nước tiểu làm cho viên sỏi bị đẩy ra ngoài, nhờ đó bệnh nhân có thể tiểu ra những viên sỏi nhỏ.
Rau ngổ thường dùng để chữa sỏi thận, tiểu ra máu, băng huyết. Theo y học Vệ đà của Ấn Độ, rau ngổ có tác dụng sát trùng, thông mật, lợi tiểu, thông tiện, kích thích tiêu hóa, chống nôn, tăng tiết sữa cho sản phụ sau sinh, làm hạ sốt. Rau ngổ còn chữa chứng chán ăn, khó tiêu và tiểu són.
Rau ngổ được ghi nhận có tác dụng giải độc, tiêu sưng nên dùng chữa rắn độc cắn, vết cắn sưng phồng. Lấy khoảng 20-40 gr sao vàng sắc nước uống, còn đắp lá tươi giã nát lên vết thương sau khi rửa sạch. Y học Trung Quốc cũng ghi nhận bài thuốc này chữa các bệnh ngoài da, herpes mảng tròn, nấm ngứa…, uống trong và kết hợp rửa ngoài.
Để chữa sổ mũi, ho, ho gà, 15-30 gr rau ngổ sắc nước uống. Chữa sạn thận, 20-30 gr tươi giã nhỏ, thêm nước vào vắt lấy nước uống.
Người dân Malaysia và Indonesia cũng dùng rau ngổ làm thuốc lợi tiểu, chữa những cơn đau thắt bụng, hoặc giã nát đắp lên vết thương, vết loét. Ngày dùng 10-16 gr dưới dạng thuốc sắc hay viên hoàn.
Lưu ý, phụ nữ có thai không nên ăn nhiều rau ngổ vì tác dụng giãn cơ phủ tạng có thể gây sẩy thai. Thân rau ngổ có nhiều lông và hay mọc ở nơi ẩm ướt đầm lầy dễ bị nhiễm khuẩn nên cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến ngộ độc nếu rửa không kỹ.
Design by Hao Tran -