Hiển thị các bài đăng có nhãn cách chữa bệnh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn cách chữa bệnh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2013

Cỏ roi ngựa là loại cỏ nhỏ, sống lâu năm, mọc thẳng, cao từ 10cm – 1m, thân có 4 cạnh. Lá mọc đối, có rãnh, xẻ thuỳ lông chim. Hoa mọc thành chùm ở đầu ngọn, màu xanh. Quả nang, có 4 nhân. Vì thân cây mọc thẳng, có đốt như roi ngựa, nên có tên gọi là cỏ roi ngựa.


Cây mọc hoang ở khắp nơi. Toàn cây được dùng làm thuốc. Dùng tươi hoặc sấy khô.
Theo Y học cổ truyền, cỏ roi ngựa có vị đắng, hơi hàn, vào 2 kinh can và tỳ, có tác dụng giải độc, hoạt huyết, tán ứ, sát trùng, thông kinh… Dùng chữa cảm sốt, đau bụng kinh, kinh nguyệt không đều, mụn nhọt, lở ngứa,…
Một số đơn thuốc thường dùng
Chữa cảm sốt: Cỏ roi ngựa 50g, khương hoạt 25g, thanh cao 25g. Cho các vị thuốc vào nồi đổ ngập nước, sắc lấy 2 bát con, chia thành 2 lần uống trong ngày (cũng có thể đem các vị thuốc tán nhỏ, hãm nước sôi như pha trà uống trong ngày); nếu kèm theo đau họng, thêm cát cánh 15g cùng sắc uống.
Sốt rét: Dùng cỏ roi ngựa khô 30 – 60g, sắc nước uống. Trước và sau lúc lên cơn sốt 1 – 2 giờ uống 1 lần.
Chữa kinh nguyệt không đều: Cỏ roi ngựa 40g, ích mẫu 20g, cỏ tháp bút 10g, ngải cứu 25g. Tất cả sắc với nước uống, ngày 2 lần. Uống trước kỳ kinh 10 ngày.
Chữa đau bụng kinh: Cỏ roi ngựa 30g, huyền sâm 15g, sinh địa hoàng 15g, xích thược 15g, bạch thược 15g, địa cốt bì 15g, nữ trinh tử 15g, cỏ nhọ nồi 12g, xuyên luyện tử 15g, uất kim 5g, mẫu đơn bì 12g. Sắc uống mỗi ngày một thang. Uống liên tục 6 ngày trước khi thấy kinh, một liệu trình là 2 tháng. Trường hợp đau nhẹ, dùng: Cỏ roi ngựa 30g, ích mẫu thảo 30g. Sắc uống 3 thang trước khi thấy kinh, hiệu quả rất tốt.
Bế kinh: Cỏ roi ngựa 40g, rễ cây gai 30g, sắc với nước uống ngày 2 lần. Uống trước kỳ kinh 10 ngày.
Mụn nhọt: Cỏ roi ngựa tươi, giã nhuyễn, vắt lấy nước cốt uống, còn bã đắp lên chỗ mụn nhọt, dùng đến khi khỏi.
Da lở ngứa: lấy 50-100g cỏ roi ngựa tươi, rửa sạch, nấu nước tắm rửa ngày 1 lần. Dùng đến khi khỏ

Thứ Năm, 24 tháng 10, 2013

“Ở Trường Sơn có hàng chục loại dơi to (ađhôôr) hay dơi nhỏ (briêng) khác nhau. Tuỳ theo tập quán vùng cao hoặc thấp mà đồng bào chế biến dơi thành những món ăn hấp dẫn khác nhau. Đây là món được coi là quý hiếm, vì thịt dơi trẻ con ăn chóng lớn, thông minh, nhanh nhẹn, người già ăn thịt dơi khoẻ mạnh, kéo dài tuổi thọ, còn tuổi trẻ được ăn thịt dơi thì đời sống tình dục vợ chồng tăng thêm gấp bội. Thịt dơi chế biến nhiều món ăn hấp dẫn khác như cháo dơi, dơi hầm trong ống lồ ô, dơi rán, dơi nướng “mọi”…, nhưng món cháo dơi nấu với đậu xanh là thơm ngon, bỗ dưỡng hơn cả…


Theo Đông y, con dơi còn có tên phu dực, biên bức, phi thử (chuột bay). Thịt dơi có vị ngọt, khí bình, không độc, làm lợi tiểu, tiêu phù, sáng mắt, trị băng huyết, bạch đới, nhọt lở, hen suyễn, sốt rét… Thịt dơi được sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho trẻ em bị ốm yếu, nhiều đàm (hen suyễn), cổ nổi nhiều hạch. Người ta còn sử dụng phân dơi làm thuốc có vị cay, tính bình, không độc. Dùng trị mắt mờ, trứng cá trên mặt, tràng nhạc, tim hồi hộp…
Dưới đây là các bài thuốc trị bệnh từ con dơi:
- Trị các bệnh phụ khoa như thiếu máu sau sinh, bế kinh, bạch đới, tử cung lạnh không sinh đẻ, suy nhược mệt mỏi, phong tê… Dùng thịt dơi chưng với các vị hoài sơn, kỷ tử (ăn nóng).
- Làm sáng mắt: Thịt dơi xào cà rốt hoặc ớt ngọt Đà Lạt (ăn mỗi tuần 3 lần trong 2 – 3 tháng).
- Chữa chứng đau đầu, chóng mặt: Nấu thịt dơi với bí đỏ (ăn 10 ngày).
- Chữa bệnh cho trẻ em bị ốm yếu, nhiều đàm (hen suyễn), cổ nổi nhiều hạch. Dùng thịt dơi băm chưng, nấu canh, nấu cháo cho trẻ ăn.
- Cải thiện chứng suy giảm tình dục: Nấu cháo dơi với đậu xanh hoặc hạt sen (ăn mỗi tuần 3 lần).

TRẠCH TẢ

(Rhizoma Alismatis Plantago-aquaticae)

Trạch tả còn có tên là Mã đề nước là thân củ chế biến phơi hay sấy khô của cây Trạch tả (Alisma Plantago-aquatica L var orientalis Samuels), dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Bản kinh.


Cây Trạch tả mọc hoang ở vùng ẩm ướt nhiều nơi trong nước ta như Cao bằng, Lạng sơn, Điện biên, Hà nam, Ninh bình, Thái bình. Hái lấy rễ củ rửa sạch, cạo hết rễ nhỏ, phơi hay sấy khô làm thuốc.
Tính vị qui kinh:
Vị ngọt nhạt hàn, qui kinh Thận Bàng quang.
Theo các sách thuốc cổ:
  • Sách Bản kinh: vị ngọt hàn.
  • Sách Bản thảo diễn nghĩa bổ di: nhập Thái dương, Thiếu âm kinh.
Thành phần chủ yếu:
Alisol A, alisol B, alisol A monacetate, alisol B monacetate, epialisol A asparagine, choline, tinh dầu, alcaloit, vitamin B12, Kali có hàm lượng 147,5mg%.
Tác dụng dược lý:
A.Theo Y học cổ truyền:
Thuốc có tác dụng lợi tiểu thẩm thấp. Trị các chứng phù, tiểu ít, chứng lâm, tiết tả, di tinh.
Trích đoạn Y văn cổ:
  • Sách Danh y biệt lục: ” chỉ tả cầm tinh, trị tiêu khát, chứng lâm, trục thủy tại Bàng quang, tam tiêu”.

  • Sách Bản thảo mông toàn: ” Trạch tả tuy uống nhiều làm mờ mắt, uống ít lần làm sáng mắt vì thuốc tả phục thủy nên thủy bị trục thì mắt sáng, nếu uống nhiều lợi tiểu thận khí hư thì mắt mờ”.

  • Sách Dược phẩm hóa nghĩa: ” phàm chứng tả tiểu ít mà nhiều lần, dùng Trạch tả thanh nhuận phế khí, thông điều thủy đạo, hạ thâu bàng quang, chủ trị chứng thủy tả thấp tả, khiến phân rắn lại mà tỳ khí tự hồi phục”.
B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:


  1. Thuốc có tác dụng lợi tiểu và làm cho Natri, Kali, Clo và Ure thải ra nhiều hơn.
  2. Phần Trạch tả hòa tan trong mỡ, Trạch tả cồn chiết xuất và cồn Trạch tả đều có tác dụng hạ lipid huyết thanh rõ. Trạch tả còn có tác dụng cải thiện chức năng chuyển hóa lipid của gan và chống gan mỡ.
  3. Cao cồn chiết xuất Trạch tả có tác dụng hạ áp nhẹ. Cồn chiết xuất phần Trạch tả hòa tan vào nước có tác dụng giãn mạch vành rõ. Thuốc còn có tác dụng chống đông máu.
  4. Có tài liệu nghiên cứu bước đầu cho thấy nước sắc Trạch tả có tác dụng hạ đường huyết.
  5. Độc tính của Trạch tả: LD50 của liều uống đối với chuột cống là 4g/kg.
Ứng dụng lâm sàng:
1.Dùng làm thuốc lợi tiểu thông lâm, trị các chứng phù, viêm đường tiết niệu, viêm thận:

2.Trị tiêu chảy do viêm ruột cấp và mạn tính:
+ Chứng hàn: gia Mộc hương, Gừng nướng.
+ Chứng nhiệt: gia Hoàng cầm, Bạch thược.
+ Thương thử: gia Hương nhu, Bạch biển đậu.
+ Chứng thấp: gia Thương truật, Bán hạ, Trư linh, Hoạt thạch.
+ Thực tích: gia Sơn tra, Chỉ thực.
+ Bệnh lâu ngày: gia Đảng sâm, Thăng ma, Hoàng kỳ.
+ Tiêu chảy lâu khó cầm: gia Nhục khấu, Kha tử.
  • Trạch tả, Trư linh, Xích phục linh đều 10g, Bạch đầu ông 15g, Xa tiền tử 6g, sắc uống trị viêm ruột cấp.

3.Trị lipid huyết cao: Tác giả dùng viên Trạch tả chế (hàm lượng thuốc sống mỗi viên 3g), mỗi ngày 9 viên chia 3 lần uống, liệu trình 1 tháng. Kết quả theo dõi 110 ca lipid huyết cao trong đó 44 ca cholesterol cao lượng bình quân từ 258,4mg% hạ xuống còn bình quân 235,2mg%; 103 ca triglycerit tăng từ bình quân 337,1mg% xuống còn bình quân 258,0mg%, bình quân giảm 23,5mg% trong đó số hạ thấp trên 10% chiếm 65%, hạ thấp trên 30% chiếm 40,8%, có 18,4% hạ thấp trên 50% (Báo cáo của Bệnh viện Trung sơn thuộc Viện Y học số 1 Thượng hải, Báo Y học Trung hoa 1976,11:693).
4.Trị chứng huyễn vựng: Tác giả Dương phúc Thành dùng Trạch tả thang gồm Trạch tả 30 – 60g, Bạch truật 10 – 15g, ngày 1 thang sắc chia 2 lần uống. Theo dõi 55 ca, uống từ 1 – 9 thang có tùy chứng gia vị kết quả đều khỏi (Tạp chí Trung y Hồ bắc 1988,6:14).
Liều thường dùng: 10 – 20g.
Hạt mã đề – tên thuốc gọi là xa tiền tử, là hạt của cây mã đề, thuộc loài cỏ sống lâu năm, có ở khắp nơi trên đất nước ta từ đồng bằng đến trung du, miền núi. Xa tiền tử thu hoạch vào khoảng tháng 7 – 8 khi quả chín già, đem nhổ cây về phơi khô và thu lấy hạt. Về thành phần hóa học, hạt mã đề chứa nhiều chất nhày, các acid succumic, adenine và cholin.
Theo Đông y, xa tiền tử vị ngọt, tính hàn, không có độc quy kinh can, thận, bàng quang, phế. Có tác dụng lợi niệu thanh nhiệt, chữa các chứng tả, lỵ. Thuốc có công năng làm mạnh phần âm, ích tinh khí, mát gan, sáng mắt. Xa tiền tử là vị thuốc khá thông dụng được sử dụng phổ biến trong nhân dân ta. Chủ trị các chứng thấp nhiệt gây đái buốt, đái rắt, thủy thũng, phù nề, vàng da. Chữa ho, thông đờm trong viêm phế quản, các bệnh tả lỵ, bệnh đau mắt đỏ, nhức mắt, nước mắt chảy nhiều.
Xin giới thiệu một số bài thuốc lợi niệu tiêu phù có hạt mã đề.
Bài 1: Chữa chứng thấp nhiệt tiểu tiện khó, đái buốt, đái rắt, nước tiểu ít, màu đỏ hoặc đục, dùng xa tiền tử độc vị tán bột ngày uống 8 – 10g chia 2 lần. Trường hợp nặng hơn phải thanh nhiệt lợi thấp dùng hoàng bá 12g, hoàng liên 8g, bồ công anh 12g, tỳ giải 12g, mộc thông 10g, xa tiền tử 12g. Sắc uống ngày một thang.
Bài 2: Trường hợp thấp nhiệt nặng thậm chí không đái được, bụng đầy trướng, miệng khô, họng ráo, rêu lưỡi vàng cáu, mạch hoạt sác, dùng bài Bát chính tán gồm xa tiền tử, cù mạch, hoạt thạch, chi tử, mộc thông, biển súc, cam thảo, đại hoàng lượng bằng nhau, tán thành bột kép, ngày uống 3 lần, mỗi lần 10 – 15g chiêu với nước đăng tâm thảo. Sắc uống ngày một thang.
Bài 3: Nếu thấp nhiệt thịnh, ứ nghẽn nhiều phải thanh nhiệt, giải độc, hóa ứ, trừ thấp dùng đại hoàng 6g, bạch truật 6g, mẫu lệ 10g, xa tiền tử 16g, hồng hoa 6g, khiếm thực 10g, ngư tinh thảo 10g. Sắc uống ngày một thang.
Bài 4: Trường hợp tiểu tiện khó khăn, mặt phù, chân thũng, bụng trướng, kém ăn tiểu tiện vàng, rêu lưỡi nhớt, là khí hóa mất chức năng, dương uất, thủy ứ phải hóa khí kiện tỳ, lợi thấp dùng xa tiền tử 12g, phục linh 12g, trư linh 12g, trạch tả 12g, bạch truật 12g, bạch mao căn 12g, trần bì 12g, trần bì 12g, quế chi 6g, tỳ giải 15g.
Bài 5: Nếu tiểu tiện khó khăn do tiền liệt tuyến phì đại, cuối bãi nhỏ giọt không hết, thiên về ứ kết phải hành khí, phá ứ, điều dương, thông lợi dùng xa tiền tử 24g, tạo giác thích 15g, dâm dương hoắc 15g, xuyên sơn giáp 15g, chỉ thực 15g, tiên mao 15g, hồng hoa 6g. Sắc uống ngày một thang, chia 2 – 3 lần.
Bài 6: Chữa chứng phù thũng, tiểu tiện không lợi dùng hạt mã đề 15g, phục linh bì 9g, trạch tả 9g. Sắc uống ngày một thang.
Bài 7: Trường hợp phù thũng toàn thân tiểu tiện không lợi do phong hàn nhiệt thấp độc bị ứ dẫn đến công năng của 3 tạng tỳ, phế, thận mất điều hòa lại kiêm khái thấu, thở gấp phải tán hàn, tuyên phế, lợi thủy, tiêu thũng dùng xa tiền tử 12g, ma hoàng 6g, tô diệp 9g, trần bì 9g, trư linh 9g, bán hạ 6g, hạnh nhân 9g, phục linh 9g, phòng phong 9g, đan bì 9g.
Bài 8: Nếu phù thũng tiểu tiện ít, vàng, sẻn, khó khăn dùng xa tiền tử 12g, mộc thông 5g, phục linh 12g, mẫu đơn bì 12g, đại phúc bì 9g, trần bì 9g, phòng phong 9g, ma hoàng 6g, tô diệp 9g, phòng kỷ 9g, trích tang bạch bì 9g. Sắc uống ngày một thang.
Bài 9: Trường hợp phù thũng lúc phát lúc không, xu hướng không nặng, lưng gối yếu ớt, miệng khô, họng ráo, sốt nhẹ, mỏi mệt kèm theo tâm phiền, tai ù, chóng mặt, lưỡi đỏ, mồ hôi trộm phải tư can dưỡng thận, đạm thấm lợi thủy dùng xa tiền tử 25g, trạch tả 20g, bạch phục linh 25g, địa phu tử 25g, mẫu đơn bì 20g, sơn thù du 15g, tang thầm 25g, câu kỷ tử 20g, nữ trinh tử 20g, hoài sơn 20g, can địa hoàng 25g. Sắc uống ngày một thang.

Thứ Hai, 14 tháng 10, 2013

CÂY CON KHỈ

Từ một hiệu quả điều trị cho một bệnh nhân bị ung thư gan, sau khi các loại thuốc đã bó tay, khi được ăn những lá tươi xanh người bệnh đã có những chuyển biến bất ngờ. Nhiệt độ từ 39,5 độ C hạ xuống còn 37 độ, cơn đau chưa hẳn, nước da bớt vàng, bụng nhỏ lại, người nhẹ nhàng, bệnh nhân có thể ngồi dậy tiếp chuyện.


Cái gì có khả năng làm chuyển bệnh nhanh như vậy, biểu hiện công hiệu của thuốc như sau:

Sau khoảng từ 20 phút đến một giờ thuốc có tác dụng. Nếu ăn 5 lá giảm đau được 3 giờ, 7 lá giảm đau được 5 giờ, tương đương với một liều thuốc đặc trị.
Thực tế ấy làm cho gia đình người bệnh ngạc nhiên, phấn khởi nhưng với lòng luyến tiếc bởi nếu dùng thuốc sớm hơn thì kết quả có thể hy vọng cứu được người bệnh.
Dùng lá trong lúc bệnh tình đã đến giai đoạn cuối nhưng gây được chuyển biến như vậy thì thật tuyệt vời. Ðó là cây “Hoàn Ngọc”, Cây thuốc cực kỳ quý giá. Một món quà thiên nhiên tặng cho con người. Xuất xứ cây này được gọi là cây “con khỉ” vốn là vì khỉ ăn chữa khỏi bệnh thủng ruột, nhưng sau đổi thành “Hoàn Ngọc” vì đã trả lại cho chú bé hòn dái bị biến mất do trò chơi nghịch đá vào bìu nhau.
Cây thuốc rất đa năng. Từ hồi phục trạng thái của cơ thể khỏe mạnh đến các bệnh thông thường cũng như hiểm nghèo. Cây thuốc như cứu tinh trong nhiều trường hợp thúc bách, không rõ nguyên căn, nhưng sau khi ăn, diễn biến của bệnh tương tự như một hành động điều trị, điều chỉnh trạng thái cơ thể, chỗ nào yếu điều trị chỗ đó.
Có thể nêu cụ thể tác dụng cây thuốc như sau:
1. Khôi phục sức khỏe cho người ốm yếu, mệt mỏi, người già, suy nhược thần kinh, làm việc quá sức, khủng hoảng về tinh thần và thể lực.
2. Cảm cúm nhiệt độ cao, rối loạn tiêu hóa.
3. Chấn thương chảy máu, dập gãy cơ thể, dùng như nước uống và thuốc đắp. Ðặc biệt hiệu nghiệm với vết thương sọ não.
4. Khi bị nhiều bịnh một lúc như: Bệnh đường ruột, cảm cúm, gan, thận . . .
5. Ðau dạ dầy, chảy máu đường ruột, lở loét hành lá tràng, viêm loét đại tràng, trĩ nội.
6. Ðau gan sơ gan cổ trướng.
7. Viêm thận, viêm đường tiết niệu, đái ra máu, đái buốt, đái dục, đái gắt, bìu đau nhức. Sau khi uống hoặc ăn 150 lá đến 200 lá khỏi hẳn, tràn dịch màng phổi đều tốt.
8. Ðau bên trong không rõ nguyên nhân.
9. Ðau mắt đỏ, mắt trắng, đau ứ máu.
10. Phụ nữ đang cho con bú bị sa dạ con cũng ăn lá thuốc không ảnh hưởng gì đến sữa.
11. Ðối với người có bệnh huyết áp cao hoặc thấp ăn lá thuốc đều có hiệu quả, ổn định được thần kinh, rối loạn thần kinh thực vật đều chữa khỏi.
12. Có thể dùng cho chó Nhật như đẻ một ngày cho ăn lá sạch ngaỵ Gà chọi sau khi chọi cho ăn lá nó khôi phục sức gấp 3 lần.
Theo tôi dùng chữ “thần dược” với cây thuốc nầy cũng không quá , là một nhà nghiên cứu tôi muốn đặt câu hỏi tại sao? để chúng ta bàn luận. Tại sao khi ăn thuốc có khả năng hiệu chỉnh làm cơ thể ổn định ? có lẽ nhờ phân tích hóa chất gì đó đã tạo nên những hiệu quả như vậy.
Chúng ta tốn rất nhiều thời gian và phải có thí nghiệm tốt. Theo kinh nghiệm trong dân gian, ta hãy rút ra từ thực tế. Ví dụ: Suy nhược thần kinh nặng, huyết áp cao, huyết áp thấp, đái ra máu, đái gắt đều chữa được rất nhanh chóng có những bệnh xem như đối lập nhau cho một loại thuốc nhưng ngược lại thuốc vẫn chữa được phải chăn theo quy luật bảo toàn, cơ thể con người có khả năng bảo tồn lấy sức khỏe nên đã tự động tăng sức đề kháng hoặc tự điều chỉnh, tự cân bằng tương đối để thắng bệnh tật. Do đó hầu hết các bệnh đều tự khắc phục được.
Ở đây, khi ta dùng “Hoàn ngọc”, lá thuốc này có tác dụng chữa bệnh như châm cứu, tức là tự động điều chỉnh lại cơ thể nhưng hoàn toàn tự động hoá để khắc phục bệnh tật do tự tác dụng, tự cân bằng âm dương. Vì vậy cây cỏ có tên là “Nhật Nguyệt”. Chính vì thế mới có khả năng chữa nhiều bệnh cùng một lúc như vậy. Chính từ những suy nghĩ đó, chúng tôi đã vận dụng để chữa được rất nhiều bệnh và phục hồi sức khỏe. Tuy nhiên với từng người còn phải có liều lượng cho phù hợp do tính chất cân bằng âm dương và hàn nhiệt của từng người.
Về hình thức cây thuốc:
Ðây là loại cây lá dài nhọn, mặt sau hơi nhạt, hình lá tương tự màu cây, cây cứng không có hoa, cây có lá mọc đối xứng, kẻ lá chồi cành cây chúc ngược lên, lá nó không bền mà chỉ vàng một chút là rụng ngay. Cây có sức sống khỏe như cành mọc thẳng, nhân giống chủ yếu bằng ngọn cây cắm xuống đất.
Cách dùng và liều lượng:
- Người ta dùng lá tươi là chủ yếu, lá tươi ăn ngay hoặc lấy nước uống, nấu chín lá ăn như canh.
- Do tác dụng chủ yếu là chất nước trong lá, nên vỏ cây hoặc vỏ rễ có thể ngâm bằng rượu hoặc nấu lấy nước. Lá tươi không có mùi vị dể ăn, liều lượng nhiều hay ít tùy thuộc vào từng người. Thông thường nên ăn từ 1- 7 lá và ăn nhiều lần. Mỗi lần không quá 10 lá. Uống quá liều có thể phản ứng nhẹ như người bị choáng váng nhưng chỉ sau 10 – 15 phút là khỏi.
- Các số liệu sau đây là phổ biến: (trừ ngoại lệ)
- Ðau dạ dầy do bị loét, viêm: ăn 2 lần/ngày. Mỗi lần không quá 7 lá. Khoảng 50 lá là khỏi.
- Chảy máu đường ruột: Uống lá tươi hoặc lá đã nát, dùng 7–10 lá. Khoảng 1-2 lần là khỏi.
- Viêm đại tràng co thắt: Ăn như trên 100 lá, kết hợp ăn lá mơ lông trong bữa ăn. Ăn từ 1 đến 2 tháng.
- Viêm gan, sơ gan cổ trướng: Ngày ăn 2-3 lần, mỗi lần 7 lá dùng khoảng 150 lá.
- Ðau thận, viêm thận, đau thường xuyên: Dùng không quá 50 lá, chỉ khoảng 30 lá là dứt cơn đau, ngày 3 lần, mỗi lần 3-7 lá.
- Tả lỏng, đi lỵ, rối loạn tiêu hóa: 7-15 lá, dùng 2 lần là khỏi.
- Mệt mỏi toàn thân: 3-7 lá, ăn 2 lần.
- Ðái gắt, đái buốt, đái dục, đái ra máu: Ăn từ 14-21 lá hoặc dã nát uống nước đặc.
Chữa bệnh gà dùng 1-3 lá, gà chọi sau khi chọi 1-3 lá. Chó cảnh đẻ ăn 1 lá sau 1 ngày đẻ là mạnh ngay. Ðau mắt đỏ, mắt trắng, ứ máu trong mắt lấy 3 lá đắp vào mắt sau một đêm là khỏi.
Làm thuốc là để tự cứu lấy mình và cứu người khi có điều kiện. Ðây là những kinh nghiệm của bản thân tôi, tôi không dám phổ biến sợ người hiểu biết hơn cho là hồ đồ. Song nếu các bạn thu kết quả gì đó thì lấy đó làm kinh nghiệm. Mặt khác khi thu được kinh nghiệm thì nên trao đổi.
Thói quen nhấm nháp một số loại cây, lá tự nhiên để phòng và tự chữa bệnh của loài khỉ đã dạy cho con người biết thêm nhiều bài thuốc quý chữa các bệnh về nhiễm trùng, tiêu hoá, thậm chí ngừa thai. Một ngành khoa học mới mang tên Zoo-pharmacognosie ra đời, chuyên nghiên cứu khả năng tự chăm sóc của động vật bằng cây thuốc tự nhiên.
Trong một khu rừng ở Tanzania, nhà nhân chủng học Richard Wrangham, Đại học Harvard, Mỹ, nhận thấy các con khỉ thường nhấm nháp lá cây Aspilia (thuộc họ hướng dương). Ông nếm thử thì thấy có vị đắng. Đem về phòng thí nghiệm phân tích thấy chứa nhiều chất Thiarubrine A- một chất có tác dụng chống nhiễm vi khuẩn và ký sinh trùng. Cây Aspilia đã được ghi nhận trong nhiều dược điển của các quốc gia. Lá và rễ của 7 chủng loại cây Aspilia được dùng sản xuất nhiều loại dược phẩm chữa trị vết thương, ho, sốt, đau dạ dày.
Còn Machael Huffman, nhà khoa học thuộc Đại học Tổng hợp Tokyo, cũng từng chứng kiến một con khỉ sắp chết đã lấy hết sức tàn để gặm liên tục một thân cây Vermonia amydalina, ngày hôm sau con khỉ đó đã khỏe hơn nhiều. Vì vậy, người Tanzania có truyền thống dùng cây này như một loại kháng sinh chữa các bệnh đường tiêu hóa.
Thực tế cho thấy, khỉ thường ăn lá sung có chất chống nấm. Mùa đông đến, khỉ châu Phi ăn các lá cây có tác dụng chống lạnh, viêm phổi. Giả thuyết của nhà nghiên cứu Karen Strier về giống khỉ cái ở Brazin biết cách hạn chế sinh đẻ, tránh thai bằng cách ăn một loại lá cây giàu chất isoflavonoides đến nay tuy chưa được khẳng định, nhưng được nhiều nhà linh trưởng học đồng tình.
Một số loài khỉ ở Costa Rica còn biết cách chọn sinh con đực hay cái theo ý muốn bằng cách hai vợ chồng khỉ tìm ăn những loại cây giàu chất kiềm, chất toan, phù hợp với một số sách hướng dẫn muốn sinh con gái thì mẹ nên ăn nhiều chất kiềm (âm tính), và muốn sinh con trai thì ăn nhiều chất toan (dương tính).
Ở Việt Nam, những năm trước đây đã từng xuất hiện cơn sốt về “cây con khỉ”, với những tên gọi khác như xuân hoa, hoàn ngọc… được quảng cáo là khi bị bệnh loài khỉ thường tìm những cây này để ăn. Tính chất, công dụng của loại cây này là chống viêm nói chung, chủ yếu là viêm nhiễm đường ruột. Tuy nhiên, không nên dùng bừa bãi vì phân biệt loại cây này không đơn giản, người không hiểu biết về thảo dược có thể bị các lang băm lừa bịp, tiền mất tật mang.
Cây hoàn ngọc còn có tên là cây con khỉ, họ Ô rô (Acantaceae). Có 2 loại là hoàn ngọc đỏ (Pseuderanthemum bracteatum) và cây hoàn ngọc trắng (Pseuderanthemum palatiferum).
Cây hoàn ngọc đỏ
Cây hoàn ngọc đỏ còn có tên cây xuân hoa lá hoa, là cây bụi, cao từ 0,6 – 1,5m, sống nhiều năm. Khi còn non, thân trơn nhẵn, mầu hơi vàng hồng, lá đơn, nguyên, mọc đối, cuống lá dài, phiến lá hình mũi mác. Những lá non, ở ngọn có mầu nâu hoặc hơi vàng đỏ, phủ một lớp lông rất mịn. Lá già màu xanh, mặt trên xanh đậm Cây hoàn ngọc trị bệnh đường ruột, mặt dưới xanh nhạt. Cụm hoa dạng bông, mọc ở kẽ lá hay đầu cành, tràng hình ống, mau tím nhạt. Cây mọc phổ biến ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng: Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương… Lá non nhấm có vị chát se, hơi chua, thường được dùng ăn kèm với thịt, cá như một loại rau gia vị để giúp cho việc tiêu hóa tốt, tránh đầy bụng, sôi bụng, đau bụng.
Khi cây bắt đầu ra hoa vào tháng 12 đến tháng 2 năm sau, người ta cắt lấy phần trên mặt đất, gồm các cành non và lá, rửa sạch phơi khô. Khi dùng cần cắt ra từng đoạn 5 – 7cm, sao vàng.
Hoàn ngọc đỏ có thể dùng để trị các bệnh viêm ruột cấp mạn tính, thuộc thể hàn: đau bụng, quặn bụng, sôi bụng, đầy hơi, đi ngoài phân sống nát, trĩ, đi ngoài ra máu. Ngoài ra còn có tác dụng cầm máu vết thương, lấy lá tươi, rửa sạch, giã nát đắp và băng chặt vào chỗ vết thương chảy máu. Song song có thể dùng lá tươi giã nát vắt lấy nước uống, hoặc sắc lá khô để uống khi bị chảy máu. Có thể dùng riêng hoàn ngọc đỏ với liều 20 – 40g/ngày, sắc uống trị các bệnh đường ruột nói trên. Hoặc phối hợp với một số vị thuốc khác, như hoàn ngọc đỏ 16g, nam mộc hương 12g, hậu phác 12g, trần bì 10g, thương truật 10g, sắc uống, ngày một thang. Uống liền 3 tuần lễ.
Cây hoàn ngọc trắng
Cây hoàn ngọc trắng còn gọi là cây xuân hoa, cũng thuộc loại cây bụi, phân nhiều cành, có chiều cao khoảng 1- 2m, lá mọc đối, hình mũi mác, đầu lá nhọn, thường xuyên xanh cả hai mặt. Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc đầu cành có mầu trắng pha tím. Khi nhấm, lá có dịch nhầy nhớt. Vị thuốc là lá của cây hoàn ngọc trắng. Hoàn ngọc trắng cũng mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi để làm thuốc. Hoàn ngọc trắng cũng được dùng để trị các bệnh viêm nhiễm đường tiêu hóa, rối loạn tiêu hóa… Trên thực tế, hoàn ngọc trắng dùng trị viêm đại tràng thể nhiệt, tốt hơn như táo bón, đau bụng, trĩ xuất huyết. Có thể dùng lá tươi, rửa sạch, ăn sống hoặc sắc lấy nước uống, ngày 8-10g.
Để trị viêm loét dạ dày, tá tràng, xuất huyết đường tiêu hóa, trĩ nội, có thể dùng hoàn ngọc trắng, ngày 2 – 3 lần, mỗi lần 8 – 10g. Dùng liền 2 tuần lễ.
Ngoài ra có thể dùng trị các vết thương khi té ngã bị chảy máu, tụ máu, lở loét… Lấy lá tươi, rửa sạch, giã dập, đắp bó vào nơi bị đau.

Thay vì bỏ tiền mua đồ ăn vặt không lành mạnh, bạn hãy dành tiền này mua một quả dừa tươi để lấy nước uống ít nhất 3 lần/tuần nhé vì chúng rất có lợi cho sức khỏe tụi mình đấy!


Làm đẹp da
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng cytokinin được tìm thấy trong nước dừa giúp điều chỉnh sự phát triển tế bào da. Bên cạnh đó trong nước dừa có chứa acid lauric có thể giảm thiểu sự lão hóa của tế bào da, cân bằng độ PH và giữ cho các mô da liên kết mạnh mẽ, làm ẩm cho da.
Vì vậy, chỉ cần áp dụng thoa nước dừa lên vùng da xấu xí mỗi tối trước khi đi ngủ có thể giúp hạn chế mụn trứng cá, nếp nhăn, vết rạn, ngứa da và eczema.
Tăng cường năng lượng
Do đặc tính dồi dào vitamin, khoáng chất và chất dinh dưỡng hơn hẳn các thức uống khác, nước dừa là một thức uống năng lượng tuyệt vời.
Trong đó, nước dừa có chứa ít đường và hàm lượng natri ít hơn hẳn so với các nước uống thể thao khác nhưng lại có nhiều kali, canxi và chloride giúp bổ sung và nâng cao mức năng lượng của cơ thể cho bạn năng lượng tối ưu.
Sức khỏe tim mạch
Theo các nhà nghiên cứu, những nhân có huyết áp cao thường có mức độ kali thấp. Vì vậy, uống nước dừa thường xuyên có thể khá hiệu quả trong việc điều hòa huyết áp do nồng độ cao kali và axit lauric.
Tương tự, một số nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng nước dừa có thể giúp tăng HDL (tốt) cholesterol, và làm cho nó là một thứ nước tuyệt vời tự nhiên để điều trị duy trì sức khỏe tim mạch.
Giảm nguy cơ mất nước
Nhờ nước dừa rất giàu kali và các khoáng chất khác nên nó điều hòa dịch nội bộ và bổ sung nước cho cơ thể. Nó đã được dùng để điều trị chứng mất nước mỗi khi bạn bị bệnh lỵ, dịch tả, tiêu chảy, cúm và sự cân bằng chất điện phân.
Chưa kể các huyết tương tìm thấy trong nước dừa tương tự như máu của con người. Vì vậy, uống một cốc nước dừa mỗi ngày giúp giảm nguy cơ bất thường của đường tiêu hóa, bye bye nhiệt miệng và nhanh chóng hồi phục cơ thể sau khi mất nước.
Có lợi cho hệ tiêu hóa
Nước dừa chứa axit lauric mà khi vào cơ thể chúng sẽ chuyển đổi thành monolaurin. Monolaurin sẽ giúp kháng vi-rút, kháng khuẩn, chống giun đường ruột, ký sinh trùng và nhiễm trùng đường tiêu hóa khác ở trẻ em và người lớn.
Ngoài ra, nước từ dừa đóng vai trò như một loại thuốc kháng sinh và là một phương thuốc đơn giản cho những vấn đề về đường ruột. Bạn có thể áp dụng bằng cách trộn một thìa cà phê dầu ôliu vào một cốc nước dừa và uống hàng ngày (ít nhất ba ngày/ tuần).
Đối với các vấn đề về táo bón, tiêu chảy và các vấn đề tiêu hóa thông thường khác nên uống một cốc nước dừa ngày 2 lần.
Giảm cân
Nước dừa là một chất điện phân tự nhiên vừa giúp giải khát vừa giúp tăng cường sự trao đổi chất của cơ thể. Vì vậy, nó rất có lợi cho những nhân đang đấu tranh với các vấn đề về cân nặng.
Tăng cường hệ miễn dịch
Nước dừa là một chất lỏng vô trùng ít calo và chất béo nhưng lại giàu vitamin, khoáng chất và các chất dinh dưỡng khác.
Một vài chất dinh dưỡng chính trong dừa nước bao gồm acid lauric, Chloride, và sắt, kali, magiê, canxi, natri, và Phospho. Trong thực tế, lượng kali có trong nước dừa gấp 2 lần lượng kali có trong chuối.
Điều này giúp cân bằng sức khỏe cơ bắp, tim mạch, hệ thần kinh và hệ miễn dịch, cũng như hấp thụ và cân bằng các chất lỏng bên trong của cơ thể.
Liều thuốc kháng vi khuẩn, chống viêm
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nước dừa có tác dụng kháng vi-rút kháng khuẩn, chống viêm và chống oxy hóa. Những đặc điểm này khiến nước dừa có thể trợ giúp điều trị các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.
Chúng là thức uống giàu dinh dưỡng đã được sử dụng để điều chỉnh huyết áp, lượng đường trong máu, và mức cholesterol. Chúng cũng giúp nâng cao mức năng lượng và tăng cường sự trao đổi chất trong cơ thể người.
Ngoài ra, nước dừa cũng khá hiệu quả để điều trị các bệnh tật cho chúng mình bao gồm cúm, dạ dày, kiết lỵ, khó tiêu, táo bón, giun đường ruột, bệnh tả, bất thường về tiết niệu, thận có vấn đề trục trặc, da khô ngứa và giảm nếp nhăn.
Những tác dụng phụ của nước dừa?
Nước dừa tươi là một trong những thức uống tự nhiên vô trùng nhất trên trái đất. Nó không có tác dụng phụ nào, trừ một số nhân dễ có phản ứng dị ứng. Nó được coi là thứ nước an toàn cho trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ cho con bú.
Mua và uống nước dừa như thế nào?
Nước dừa có sẵn trong lon hoặc chai ở nhiều cửa hàng tạp hóa hoặc các cửa hàng bán lẻ. Tuy nhiên bạn nên tìm mua dừa tươi nhé.
Khi mua dừa tươi, bạn hãy chọn những quả dừa có vỏ màu xanh lá cây, hoặc những trái dừa có một số đốm nâu sáng vì đây là những quả có chứa nhiều nước.
Khi sử dụng dừa tươi, bạn nên cố gắng uống nước càng sớm càng tốt vì các chất dinh dưỡng này có trong trái dừa tươi có thể bắt đầu tiêu tan ngay sau khi được tiếp xúc với không khí.
Tuy nhiên, nếu bạn không sử dụng hết, thì cũng có thể cho vào chai thủy tinh và để nó trong tủ lạnh từ 10 đến 12 giờ.
Trong nước dừa có gần như toàn bộ dưỡng chất cần cho cơ thể, nhiều vitamin nhóm B và chất khoáng. Hàm lượng kali và magie trong nước dừa tương tự như dịch tế bào của người nên nó thường được dùng cho bệnh nhân bị tiêu chảy, thậm chí làm dịch truyền.
Trẻ bị tiêu chảy được khuyến khích uống nước dừa pha muối. Nước dừa làm đẹp da, đen mượt tóc. Nhân dừa non (mềm như thạch) chứa nhiều enzym tốt cho tiêu hóa, dùng chữa các bệnh viêm loét dạ dày, viêm gan, đái tháo đường, lỵ, trĩ, viêm ruột kết. Polysacharit của nước dừa kích thích miễn dịch đối với bệnh lao phổi.
Nước quả dừa xanh còn non được các nhà khoa học gọi là “nước khoáng thực vật” vì chứa nhiều vi lượng khoáng cần thiết cho cơ thể và đường ở dạng dễ tiêu hóa, lượng Vitamin C đủ cho yêu cầu 1 ngày. Nước trong trái dừa 6-7 tuần tuổi là ngon và bổ nhất. Nước dừa từng được dùng làm dịch truyền trong chiến tranh thế giới thứ 2 và cả chiến tranh Việt Nam.
Các nhà khoa học Peru dùng dừa chống sốt rét: Khoét vỏ, đưa thân cây bông vải có tẩm 1 loại vi khuẩn thích ăn ấu trùng của muỗi anophèle vào, đậy kín lại rồi thả vào nước muối 2-3 ngày để vi khuẩn ăn chất dinh dưỡng của dừa mà sinh sôi nảy nở. Đổ nước những quả dừa đó xuống ao hồ, đầm lầy, vi khuẩn sẽ diệt ấu trùng muỗi truyền sốt rét bằng cách ăn no chúng.
Ở Phillipines, dừa được xem là món ăn trường xuân (có tên gọi Nata). Nata dừa gồm có nước dừa, đường, giấm và “nước cái” (chứa vi khuẩn giúp lên men). Cựu tổng thống Phillipines Fidel Romos cho rằng, nhờ ăn hằng ngày món này mà ông trẻ lại như ở tuổi 20. Nata đã trở thành món tráng miệng cao cấp ở Nhật và được xem là có tác dụng ngừa ung thư.
Nước dừa còn có công dụng bảo quản tinh trùng của người và động vật trong trạng thái “sức khỏe dồi dào”, tránh phải đông lạnh gây giảm khả năng thụ tinh.
Các phần khác của cây dừa như vỏ xanh, xơ ở ngoài được dùng rửa vết thương, bỏng, chàm, lở. Vỏ cứng (sọ dừa) đốt thành than cầm tiêu chảy, chống phóng xạ. Cùi non ăn bổ tâm tỳ. Cùi già ép lấy dầu, bó chữa gãy xương, chế mỹ phẩm. Rễ dừa cầm máu, lợi tiểu và chữa được nhiều chứng bệnh thông thường khác.
Theo Đông y, nước dừa ngọt ấm, không độc, giúp tăng cường khí lực, tươi nhuận nhan sắc, giải nhiệt, cầm máu nên rất tốt khi điều trị cảm nắng, thổ huyết, máu cam. Một số cách dùng nước dừa chữa bệnh:
Khản tiếng: Nước dừa non 1 cốc, rau má 8 g. Giã rau má, vắt lấy nước cốt pha với nước dừa uống.
Kiết lỵ cấp tính: Rau má 50 g, nước dừa tươi một quả. Rửa sạch rau má, giã nhỏ, vắt lấy nước, pha với nước dừa uống. Mỗi ngày một quả.
Nôn mửa: Nước dừa 2 chén, rượu nho 1 chén, nước gừng 10 giọt trộn đều uống.
Lợi tiểu giải độc: Nước dừa non có tác dụng lợi tiểu trong các bệnh tim mạch, thận.
Viêm thận phù nề: Nước dừa, nước rễ cỏ tranh, nước rễ cỏ lau mỗi thứ 30 g. Trộn đều uống.
Tẩy sán lá: Có tác dụng an toàn và hiệu lực hơn hạt cau. Không cần thuốc tẩy. Buổi sáng chưa ăn, lấy 1/2 quả dừa, uống nước và ăn cho hết cùi dừa. Sau 3 giờ, ăn uống bình thường (thức ăn lỏng).
Canh dừa khử độc hại của rượu, “bôi trơn” các khớp: Những người thường xuyên uống bia rượu hay đau nhức khớp, hoặc khi hoạt động các khớp có tiếng kêu. Lấy một quả dừa cắt ngang phần trên làm nắp, cho 20 g đậu đen vo sạch vào trong rồi đậy lại, đặt lên 1 cái đĩa, chưng trong 4 giờ. Sau đó có thể cho ít muối tùy ý để uống canh dừa. Mỗi tháng chỉ cần uống 1-2 lần thì chứng đau khớp sẽ hết, các khớp sẽ hoạt động mềm mại trở lại.
Nước dừa non trị chứng cam (bụng ỏng, đít teo, suy dinh dưỡng) cho trẻ: Nước dừa dùng nấu xôi, luộc gà… làm tăng vị thơm ngon và bổ dưỡng, thích hợp cho người gầy yếu. Người khỏe mạnh, buổi sáng uống 1 quả nước dừa xiêm cũng rất tốt.
Hoại tử ruột do bệnh thương hàn: Dừa tươi một trái, trứng gà 1 quả, gừng tươi 100 g, cam thảo 15 g. Cùi dừa tán nhuyễn với gừng và cam thảo, cho nước dừa và lòng đỏ trứng gà vào, khuấy đều, chưng hơi khô, vắt nước uống. Đây là bài thuốc dân gian Kê khương đường nổi tiếng.
Lưu ý: Nước dừa lấy ra khỏi quả sẽ bị mất khí vị, cho nên cứ để nguyên quả mà uống, tốt nhất là nên uống ngay tại gốc vừa chặt, tránh thả dừa xuống đất.
Mới đi nắng về, đang đói mệt không nên uống nước dừa; nếu người đang có bệnh thì dễ bị những tác dụng phụ như sốt, ớn lạnh… Trước khi thi đấu thể thao không nên uống nước dừa. Bình thường, mỗi ngày chỉ nên uống một quả. Uống nhiều dễ gây đầy bụng, nhất là khi có kèm cơm dừa nạo, đá lạnh và uống vào chiều tối.

Tại sao nên uống nước dừa khi bầu bí?
- Nước dừa là một loại thuốc lợi tiểu tự nhiên, giúp tăng tiết nước tiểu, và giúp ngăn ngừa tình trạng viêm đường tiết niệu cũng như giảm nguy cơ sỏi thận.
- Với lượng chất béo bằng 0, nước dừa được xem là nguồn khoáng chất không cholesrerol cho cơ thể. Nó phù hợp để giải khát suốt 4 mùa và là gợi ý lý tưởng cho nhóm thai phụ mắc chứng tiểu đường hoặc béo phì.
- Nước dừa chứa nhiều kali. Chất kali trong nước dừa có tác dụng ổn định chức năng tim mạch, chống cao huyết áp, rất hữu ích với những thai phụ mắc chứng huyết áp cao.
- Nước dừa là nguồn cung cấp dồi dào chất điện giải. Giúp ngăn ngừa tình trạng mất nước, khiến cơ thể phục hồi nhanh và cũng an toàn cho những thai phụ mắc chứng tiêu chảy.
- Nước dừa dồi dào chất xơ; magiê; clo; natri; mangan; canxi; vitamin B2, C; một lượng đường và protein tự nhiên. Táo bón, đầy bụng, ợ hơi là những vấn đề thường gặp khi mang thai và nước dừa hoàn toàn có thể khắc phục được vấn đề này.
- Nước dừa cũng rất giàu axit lauric mà khi vào cơ thể sẽ được chuyển hoá thành monolaurin, có tác dụng chống lại các vi rút, vi khuẩn có lớp vỏ lipit; kháng nấm giúp bảo vệ cơ thể khỏi các bệnh viêm nhiễm và tăng cường hệ miễn dịch.
- Nước dừa cũng rất tốt cho bà mẹ đang cho con bú.

Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

Có một số bài thuốc dân gian, cổ truyền theo hướng dẫn của lương y Huỳnh Văn Quang và Như Tá, dùng chữa những trường hợp đau lưng, nhất là đau do tính chất công việc.


Dùng 300 gr thịt dê, 3 gr trần bì (vỏ quít), 1-2 củ cải trắng, vài gốc hành ta, 3 gr thảo quả, 3 gr tấn phát, cùng gia vị tiêu, gừng. Cách làm: thịt dê cắt lát mỏng, củ cải cắt nhỏ vừa dùng, trần bì thì bỏ lụa trắng bên trong, cắt nhỏ, gừng cắt lát. Cho tất cả nguyên liệu vào nồi đem nấu cháo với gạo ngon, nêm nếm gia vị. Món này trị được chứng lưng đau do thận suy, do ngồi lâu làm việc.
Thịt dê 200-300 gr, lột bỏ màng mỡ, cắt mỏng rồi đem nấu với gốc hành ta, một ít gừng tươi, tiêu, nấu lấy nước dùng, hoặc lấy nước đem nấu cháo sẽ có công dụng chữa tình trạng lưng đau và mỏi. Lưu ý, với những người cảm sốt, đang phát ban, hoặc bụng đầy trướng thì không nên dùng thịt dê.
Lấy phần lõi bên trong của bầu dục heo, cùng các vị thuốc đỗ trọng, câu kỷ tử, ngọc trúc, khiếm thực (mỗi vị 5 gr), và các gia vị. Tất cả đem hầm chung cho chín mềm, nêm nếm gia vị để dùng; có công dụng chữa các chứng đau lưng, thận suy.
Ngoài ra, dân gian, cổ truyền còn có bài thuốc chữa chứng đau lưng rất hay: dùng quả dâu tằm đem ngâm rượu trắng, cho vào vị thuốc ngũ gia bì và đỗ trọng cao. Ngâm từ hai tuần có thể dùng được, mỗi ngày dùng một cốc nhỏ, nếu có thời gian thì hâm nóng cho rượu ngâm ấm lên thì dùng sẽ hiệu quả giảm đau nhiều hơn.
Dân gian còn dùng quả nhàu để chữa trị chứng đau mỏi lưng. Cách dùng đơn giản: hái quả nhàu đã già nhưng chưa chín đem ủ trong muối hạt cho đến khi chín, rồi chấm muối hạt để ăn, ăn 2-3 lần (mỗi lần 1 quả) trong ngày.
Lấy một ít đậu đen đem nấu với 300 gr xương sống heo cùng vị thuốc đỗ trọng 30 gr để chữa chứng đau nhức lưng. Cũng có thể dùng cây cỏ xước (độ 50 gr) rửa sạch, đem nấu với 2 chén nước để uống trong ngày.
Ngoài ra còn có bài thuốc “Lục vị địa hoàng gia giảm”, gồm các vị thuốc: hoài sơn, sơn thù, đơn bì, tục đoạn, thục địa, cốt toái bổ, ngưu tất (mỗi loại 12 gr), phục linh 10 gr, đỗ trọng 15 gr, trạch tả 6 gr. Các vị thuốc trên đem nấu với 3 chén nước, nấu còn lại 1 chén, chắt nước ra; nước thứ hai cho tiếp 3 chén nước vào và nấu còn lại nửa chén. Hòa hai nước lại, chia làm 3 lần dùng trong ngày.
Để phòng đau mỏi lưng do tính chất công việc, cần tránh khuân vác nặng quá sức; vận động, xoa bóp lưng sau mỗi 45 phút ngồi một chỗ làm việc…

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

Để phòng chống béo phì, có thể ăn củ và rau  lang luộc. Áp dụng chế độ nửa gạo, nửa khoai riêng rẽ, hoặc độn chung với nhau nấu thành cơm, cháo, bánh…


Lá khoai lang là loại rau dân dã vừa ngon, vừa mát và bổ. Củ và rau khoai lang là vị thuốc phòng chữa bệnh đã được dùng từ lâu trong dân gian, có nơi gọi nó là “sâm nam”.
Theo Đông y, khoai lang có nhiều tên như: cam thử, phiên chử. Củ khoai lang tính bình, vị ngọt, có tác dụng bồi bổ cơ thể, ích khí, cường thận, kiện vị, tiêu viêm, thanh can, lợi mật, sáng mắt. Nó được dùng chữa vàng da, ung nhọt, viêm tuyến vú, phụ nữ kinh nguyệt không đều (dùng trước kỳ kinh), nam giới di tinh, trẻ em cam tích, lỵ.
Rau lang tính bình, vị ngọt, không độc, bổ hư tổn, ích khí lực, kiện tỳ vị, bổ thận âm, dùng chữa tỳ hư, kém ăn, thận âm bất túc. Kiêng kỵ với các trường hợp tiêu chảy, viêm dạ dày đa toan, đường huyết thấp. Khoai lang vàng đỏ có nhiều vi chất hơn khoai lang trắng.
Một số điểm lưu ý khi dùng khoai lang:
- Để có tác dụng bổ dưỡng, nên ăn khoai vỏ đỏ ruột vàng. Để giải cảm và chữa táo bón, phải dùng khoai vỏ trắng ruột trắng.
- Không ăn thường xuyên rau lang vì nó chứa nhiều canxi, có thể gây sỏi thận.
- Nên ăn kèm đạm động vật, thực vật để cân bằng thành phần dưỡng chất.
- Trong khoai lang có chất đường, nếu ăn nhiều, nhất là khi đói sẽ gây tăng tiết dịch vị làm nóng ruột, ợ chua, sinh hơi trướng bụng. Để tránh tình trạng này, khoai phải được nấu, luộc, nướng thật chín hoặc cho thêm ít rượu vào nấu để phá hủy chất men. Nếu bị đầy bụng, có thể uống nước gừng để chữa.
- Vỏ khoai lang chứa nhiều vitamin và khoáng chất. Do đó phải bảo vệ phần vỏ không bị sây sát, không gọt vỏ nếu không cần thiết. Vỏ còn giúp bảo vệ dưỡng chất bên trong, vì vậy khi luộc khoai nên để cả vỏ (đã rửa sạch).
- Bảo quản khoai ở nơi sạch sẽ, khô ráo, thoáng mát, không có chuột bọ và chỉ nên dùng trong vòng một tuần.
- Phải bỏ hết khoai hà (sùng), khoai đã có mầm và vỏ xanh chứa chất độc.
- Khi luộc rau lang để ăn và chữa bệnh, nên lấy nước thứ hai vì nước thứ nhất thường chát và hăng.
Món ăn bài thuốc từ khoai lang
Chữa cảm sốt mùa nóng: Thời tiết nóng dễ gây sốt vì cảm, không ra được mồ hôi. Với người sức khỏe tốt, có thể nấu khoai lang trắng với cải bẹ xanh ăn thay cơm để giúp ra mồ hôi, hạ sốt, giải cảm. Có thể dùng các bài thuốc:
- Khoai lang trắng khô một nắm, nghệ một củ, giấm 1/2 chén con, sắc uống nóng.
- Khoai lang trắng khô 16 g, gừng 16 g, sắc uống hoặc nấu cháo.
- Khoai lang trắng tươi luộc chín để xông, rồi ăn khoai nóng, uống nước luộc khoai nóng cho ra mồ hôi.
- Khoai lang 1 củ (400 g), gạo 200 g, đậu xanh 1/2 bát cơm, mã thầy 4 củ, củ cải 1 củ, tỏi 3 nhánh, thịt gà 150 g, tôm nõn 70 g, gia vị. Tất cả giã nát hoặc thái nhỏ nấu nhừ, riêng đậu xanh và mã thầy cho vào sau rồi nấu nhừ tiếp.
Chữa táo bón: Ăn khoai luộc đơn thuần hoặc chấm mật, chấm vừng; ăn với cà pháo cả quả hoặc thái chỉ cà, nghiền cùng khoai thành khối. Các cách khác:
- Uống nước luộc khoai (khoai phải rửa sạch).
- Nấu chè khoai tươi hoặc khô với vừng và ít hoa quế.
- Dùng nước cốt luộc khoai tươi hay khô đã giã nát, nếu bị trĩ thì uống hàng tháng nước cất này vào buổi sáng.
- Ăn bánh làm bằng khoai lang với vừng hoặc dừa. Khoai lang tươi xào dầu vừng. Canh rau lang. Rau lang luộc chấm nước mắm gừng tỏi hoặc nước sốt cà chua, chấm vừng lạc (giã nhỏ). Nên làm sẵn bột khoai khô với vừng tán mịn, quấy uống mỗi sáng với nước đường.
Trẻ biếng ăn: Cho ăn dặm bằng bột khoai lang vàng đỏ quấy với bột, sữa.
Quáng gà: Lá khoai lang non xào gan gà hoặc gan lợn.
Thiếu sữa: Lá khoai lang tươi non 250 g, thịt lợn 200 g thái chỉ. Xào chín mềm, thêm gia vị.
Viêm tuyến vú: Khoai lang trắng gọt vỏ, giã nhuyễn đắp lên vú, có thể phối hợp với tỏi giã nhuyễn để đắp.
Thận âm hư, đau lưng mỏi gối: Lá khoai lang tươi non 30 g, mai rùa 30 g, sắc kỹ lấy nước uống.
Thận dương hư, đi tiểu nhiều lần: Hầm thịt chó với khoai lang, cho thêm chút rượu và gia vị.
Chữa ngộ độc sắn: Khoai lang gọt vỏ giã nát thêm nước, vắt lấy nước cốt. Uống cách nhau 1/2 giờ.
Say tàu xe: Củ khoai lang tươi nhai nuốt cả nước và bã.
Phụ nữ băng huyết: Rau lang tươi một nắm giã nát, lấy nước cốt uống.
Vàng da: Nấu cháo đặc bằng khoai với gạo hoặc bột ngô.
Mụt nhọt: Khoai lang củ 40 g, lá bồ công anh 40 g, đường hoặc mật mía giã nhuyễn bọc vào vải, đắp lên mụn nhọt. Để hút mủ nhọt đã vỡ, lấy lá khoai lang non 50 g, đậu xanh 12 g, thêm chút muối, giã nhuyễn bọc vào vải đắp.

Bí ngô là loại cây dễ trồng, phổ biến trên thế giới. Thịt quả bí ngô có vị ngọt, mát, nhuận tràng, rất tốt để làm thực phẩm mùa hè. Bí ngô cũng rất tốt cho thận, giải nhiệt, giải độc cho gan, vì vậy nó cũng có chức năng ngừa cảm nắng hay những người bị say nắng.


Theo các nhà khoa học, trong quả bí ngô có nhiều chất chống ôxy hoá, chống viêm nhiễm cho cơ thể, giúp da nhanh liền sẹo, làm giảm các nguy cơ mắc bệnh về da: Vẩy nến, chàm.
Bí ngô cũng là thực phẩm không thể thiếu cho bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường, tim mạch, áp huyết, chất peptit trong bí ngô có tác dụng dung hoà làm giảm lượng cholesterol trong máu, sản sinh các insulin bị tổn thương, cải thiện insulin trong máu. Sử dụng bí ngô thường xuyên cung cấp cho cơ thể một lượng lớn các chất sắt, kẽm, giúp đẩy nhanh quá trình tạo máu và các huyết cầu tố, phòng ngừa thiếu máu và xơ vữa động mạch. Mùa nóng, có thể ăn sống hoặc chế biến thành các món xào, nấu, nấu chè từ thịt quả bí ngô.
Hạt bí ngô có tên khoa học là Semen cucurbitae Moschatae. Đây là loại hạt rất phổ biến ở Việt Nam thường được sấy khô có nhiều chất dinh dưỡng. Trong hạt bí ngô có chứa nhiều magie. Theo một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Pháp, nam giới có lượng magie cao trong máu thì giảm được 40% nguy cơ chết chóc so với những người có lượng magie thấp. Một người đàn ông trung bình nên tiêu thụ 353 mg khoáng chất này hàng ngày, nhưng cao nhất cũng chỉ ở mức dưới 420 mg. Chúng ta có thể ăn cả vỏ hạt bí ngô, vì vỏ hạt có nhiều chất xơ. Nếu đem rang khô thì lượng magie trong hạt còn tồn tại ở mức 150 mg/1ounce.
Trong sách thuốc phương Đông thì hạt bí ngô có tên là Nam qua tử, Nam qua nhân, dùng làm thuốc, được ghi đầu tiên trong Bản thảo cương mục thập di. Hạt có vị ngọt tinh binh, qui kim vị đại tràng, vị ngọt tính ôn.
Kết quả nghiên cứu y học hiện đại cho thấy, nước sắc và nhân hạt bí ngô khi uống có tác dụng tẩy giun đũa, làm tê liệt sán dây ở bò và heo, phối hợp với hạt cau thì đem lại hiệu quả cao. Đối với phụ nữ sau khi sinh mà mất sữa có thể khắc phục bằng cách mỗi lần uống hạt bí ngô từ 15-20g.
Chế biến bằng cách: Bỏ vỏ, giã nát, hòa nước uống khi đói bụng, ngày uống hai lần sáng và tối. Uống liền 3-5 ngày thì có kết quả. Canh thịt quả bí ngô có tác dụng trị nhức đầu. Cuống quả bí ngô tán nhỏ, mỗi lần uống từ 1-2g có tác dụng gây nôn, trị đờm, giải độc thịt cá.
Tại nhiều quốc gia châu Âu nơi mà tỷ lệ người dân bị béo phì, áp huyết, tim mạch tăng đột biến thì nhiều người thường sử dụng hạt bí ngô trong khẩu phần ăn của mình để ngừa bệnh phì đại tuyến tiền liệt , xơ vữa động mạch, cho thấy rất hiệu quả. Có điều đặc biệt là trong hạt bí ngô có chất đặc hiệu delta 7 – phytosterol mà các loại dầu thực vật khác như đậu nành, ô liu, hướng dương không bao giờ có, chất này có tác dụng ngừa bệnh xơ vữa động mạch vành rất tốt.
Tại nhiều quốc gia châu Âu và châu Mỹ, hạt bí ngô còn được chế biến thành các viên nang dinh dưỡng mềm Peponen dùng cho các chế độ ăn chữa các bệnh rối loạn tiểu tiện ở cả nam và nữ, phòng ngừa rối loạn mỡ trong máu ở người lớn tuổi.

Hoa nhài còn gọi là hoa lài, nhài đơn, mạt lợi, tên khoa học của cây nhài là Jasminum Sambac Ait, thuộc họ nhài (Oleaceae). Cây nhài có nguồn gốc từ Ấn Độ. Hiện nhài được trồng khắp nơi để dùng hoa ướp chè.


Hoa nhài là loại cây thân gỗ, thường mọc thành bụi, lá bóng cả hai mặt, phiến lá hình bầu dục hơi trái xoan, mọc đối. Hoa sắc trắng, mọc thành cụm ở nách lá hay ngọn cây, có mùi thơm, hoa hay nở vào ban đêm, cũng có khi nở rộ vào giữa trưa. Quả màu đen hình cầu quanh có đài phủ lên, quả gồm 2 ngăn. Hoa nhài được trồng làm cảnh ở khắp nước ta. Ngoài công dụng để ướp trà, hoa nhài còn là vị thuốc chữa một số bệnh thông thường.
Bộ phận sử dụng làm thuốc là hoa và rễ. Trong hoa nhài chứa chất béo thơm khoảng chừng 0,08%. Rễ tuy độc nhưng được dùng làm thuốc giảm đau.
Đông y cho rằng, hoa nhài có tính bình, hơi hàn, vị đắng có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi thấp, tiêu thũng, hoạt huyết… dùng chữa viêm màng khóe mắt, hay màng mộng, đặc biệt chữa bệnh mất ngủ, tăng huyết áp, tiêu chảy, hoa mắt, chóng mặt… Liều dùng trung bình từ 2 – 4g loại hoa khô. Ngoài ra người ta còn chiết lấy tinh dầu hoa nhài làm hương liệu trong công nghệ mỹ phẩm.
Để tham khảo và áp dụng, dưới đây là những phương thuốc chữa trị bệnh tiêu biểu từ hoa nhài.
Chữa mất ngủ: Hoa nhài 6g, tâm sen 8g. Hoa nhài và tâm sen hãm với nước sôi uống nhiều lần trong ngày. Uống liên tục từ 7 – 10 ngày sẽ thấy kết quả rõ rệt. Hoặc hoa nhài 10g, bồ công anh 20g, kim ngân hoa 20g, cam thảo đất 10g, sắc uống ngày 1 thang chia 2 – 3 lần. Uống liên tục trong 7 ngày.
Chữa tăng huyết áp: Hoa nhài 10g, hoa hòe 10g, kim cúc 6g, hoa đại 6g. Sắc với ba bát nước còn một bát, chia uống hai lần trong ngày. Uống vào buổi sáng và tối sau bữa ăn. Mỗi liệu trình uống 10 ngày.
Trị bệnh tiêu chảy: Hoa nhài 6g, chè xanh 10g, thảo quả 3g, vỏ dộp ổi 3g. Cách dùng: 4 thứ trên đem sắc với 600ml nước còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày, uống sau các bữa ăn. Uống liên tục trong 3 ngày. Hoặc hoa nhài 10g, vỏ quả lựu 10g, cam thảo đất 16g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2- 3 lần. Uống trong 4 ngày.
Chữa chứng hay nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt: Hoa nhài và hoa cúc vàng, mỗi vị 6g. Cả hai rửa sạch, để ráo đem hãm với nước sôi, uống thay nước chè hàng ngày.
Nhức mỏi, đau đầu gối: Hoa nhài 50g, móng giò lợn 200g. Cách nấu: Móng giò lợn rửa sạch, chặt khúc, ướp gia vị. Hoa nhài đã rửa sạch để ráo. Cho 3 bát nước đun sôi móng giò khoảng 30 phút, cho hoa nhài vào, nêm gia vị vừa đủ bắc ra ngay. Ăn khi canh còn nóng, có thể dùng làm canh ăn với cơm. Mỗi tuần nên ăn khoảng 3-5 lần. Đơn thuốc này dễ làm nhưng lại hiệu quả cho người hay nhức mỏi, đau đầu gối.
Giúp thanh nhiệt mùa hè, tăng cường sức đề kháng: Hoa nhài khô 6g sắc uống thay nước hàng ngày. Hoặc dùng trà hoa nhài: Hoa nhài khô 1 thìa, cho hoa nhài vào bình trà, rót 300ml nước sôi để hãm, 5 phút sau trà có mùi thơm có thể uống luôn, người thích ngọt thì cho thêm mật ong hòa đều để nguội uống. Phương thuốc này có công dụng thanh thuần tỉnh não, khai khiếu giải phiền.
Chữa đi tiểu nhiều: Hoa nhài 5g, ngân hạnh 3g, sắc với 3 bát nước trong 1 giờ. Ngày uống hai lần, uống trong 7 ngày.
Chữa ho suyễn: Hoa nhài 3g, đậu phụ 100g hãm vào nước sôi uống trị được phế ung, ho suyễn, ngực đầy khí suyễn, hô hấp không thuận. Uống

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

Cây bầu tên khoa học là Lagenaria siceraria (Molina) Standl, thuộc họ bầu bí (Cururbitaceae). Là loại cây dây leo thân thảo, được trồng ở khắp nước ta, cây có tua cuốn phân nhánh và phủ nhiều lông mềm màu trắng. Quả bầu không chỉ là món ăn bổ mát còn được dùng làm thuốc.


Thành phần hoá học: Quả tươi chứa 95% nước; 0,5% protit; 2,9% glucit; 1% xenlulo; 2,1% canxi; 2,5% phosphor; 0,2mg% sắt và các vitamin; caroten 0,02mg%; vitamin B1 0,02mg%; vitamin B2 0,03mg%; vitamin PP 0,40mg% và vitamin C 12mg%. Trong quả còn có saponin. Quả bầu là nguồn cung cấp rất tốt vitamin B và vitamin C. Nhân hạt già chứa tới 45% dầu béo.
Theo Đông y, bầu vị hơi nhạt, tính mát, có công hiệu giải nhiệt, giải độc, lợi tiểu, nhuận phổi, trừ ngứa; chủ trị các chứng như trướng bụng, phù thũng, tiểu tiện ít, phổi nóng, ho…Cụ thể là thịt quả bầu vị ngọt, tính hàn, có tác dụng giải nhiệt, trừ độc, được dùng trị chứng đái rắt, phù nề, đái tháo, mụn lở…Vỏ bầu vị ngọt, tính bình, lợi tiểu, tiêu thũng nên cũng được dùng cho các chứng bệnh phù thũng, bụng trướng.
Hạt bầu đun lấy nước súc miệng chữa bệnh sưng mộng răng lợi, răng lung lay, tụt lợi. Lá bầu có vị ngọt, tính bình có thể làm thức ăn chống đói. Tua cuốn và hoa bầu có tác dụng giải thải nhiệt độc, nấu tắm cho trẻ em phòng ngừa đậu, sởi, lở ngứa. Quả bầu già sắc lấy nước uống có tác dụng lợi tiểu.

Dưới đây xin giới thiệu bài thuốc chữa bệnh từ quả bầu:
* Chữa tiểu trường: Quả bầu 50 – 100g nấu thành canh ăn hằng ngày.
* Chữa ho do phổi nóng: Quả bầu 50g đun lấy nước uống thay trà trong ngày.
* Chữa viêm lợi: Hạt bầu 20g, ngưu tất 20g, nấu lấy nước ngậm và súc miệng ngày 3 – 4 lần.
* Chữa đái dắt: 50g quả bầu, 30g rau má, 20g cỏ rễ tranh, 10g râu ngô. Tất cả cho vào ấm sắc uống hàng ngày, mỗi ngày chia làm 3 lần. (Nếu không có râu ngô có thể thay bằng rau diếp cá hoặc bông mã đề).
* Thuốc chữa táo bón: 50g bầu, 50g khoai lang, 30g đường đỏ. Thuốc sắc uống trong ngày, chia làm 3 lần, uống liên tục trong 5 ngày. Bệnh sẽ đỡ nhiều.
* Trị bí tiểu tiện: 200g bầu, 5 củ hành củ (dùng cả lá lẫn rễ). Hai vị trên sắc cùng nhau, uống trong ngày. Uống làm 3 lần mỗi lần khoảng 60ml.

Cây hoa dẻ

Cây hoa dẻ còn gọi với tên khác là nồi côi, tên khoa học là Platanthera yosemitensis, thuộc họ Na (Annonaceae). Là loại cây mọc hoang trên các đồi cây ven rừng hoặc được trồng làm giàn leo cây cảnh ở các biệt thự.



Hoa dẻ luôn thấy xuất hiện trong đĩa hoa cúng trên bàn thờ tổ tiên vào ngày rằm, mồng một, lễ tết. Hoa dẻ là loài hoa dại có năm cánh hoa vàng ươm như ánh trăng mùa thu. Hoa dẻ thơm nồng nàn hơn cả hoa bưởi, hoa cau. Thường thấy loài hoa dại này sống ở ven rừng.
Nhiều bộ phận của cây dẻ được dùng làm thuốc trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian. Bộ phận sử dụng để làm thuốc là cả cây (thu hái quanh năm, chặt nhỏ, phơi khô, dùng riêng hoặc phối hợp với cây khác), hoa và rễ.
Theo kinh nghiệm của đồng bào dân tộc Dao ở tỉnh Tuyên Quang, bà con đã thu hái cây hoa dẻ quanh năm, chặt nhỏ, phơi khô, dùng riêng hoặc phối hợp với cây bòn bọt, nấu nước sắc để chữa bỏng và vết thương lở loét nên Học viện Quân y đã bào chế từ 2 dược liệu trên dạng cao lỏng lấy tên là cao SH-91, theo cách làm cụ thể sau:
Cả cây hoa dẻ và cành lá bòn bọt, mỗi thứ 5kg, chặt nhỏ, phơi khô cho vào nồi nhôm, đổ ngập nước 1 – 2 cm, nén nhẹ bằng 1 chiếc vít cho dược liệu không nổi lên, đun sôi trong 3 giờ, chắt lấy nước thứ nhất. Thêm nước, tiếp tục đun sôi trong 2 giờ, chắt lấy nước thứ hai. Gộp 2 nước sắc lại, cô nhỏ lửa thành cao. Cao có tỷ lệ 10/1 (10kg dược liệu thu được 1 lít cao) màu nâu nhạt, mùi thơm nhẹ. Đóng chai nút kín, đun tiệt trùng ở 110 độ C trong 1 giờ.
Khi dùng, chế cao thành thuốc mỡ gồm cao SH-91 10g, lanolin 10g, sáp ong 2g, vaselin vừa đủ 100g. Ngày bôi 3 – 4 lần. Thuốc không gây mẩn đỏ, ít phù nề, tạo màng che phủ tốt, liền sẹo nhanh. Thành phần có tác dụng của thuốc chính là tanin, chất làm săn se, cầm máu, ngừng xuất tiết, tạo màng che phủ và diệt khuẩn trên các vết bỏng nông và saponin là chất làm giảm sức căng bề mặt chất lỏng, có khả năng làm tan mủ diệt khuẩn ở các vết bỏng sâu, tạo điều kiện phát triển tổ chức hạt và biểu mô.
Đông y cho rằng, rễ cây hoa dẻ vị cay, tính hơi ấm, có tác dụng mạnh, tỳ vị, giảm đau, lợi thấp, chữa tê thấp, đau nhức gan xương, chân tay tê bại. Còn hoa dẻ tính bình, không độc, có tác dụng an thần, trấn tĩnh, chữa mất ngủ, ngủ không yên.
Dược liệu được thu hái quanh năm, như rễ thu hái, đem về rửa sạch, thái mỏng, phơi hay sấy khô cất dùng dần. Hoa dẻ được thu hái khi mới nở, đem phơi nắng nhẹ hoặc sấy lửa nhỏ để đảm bảo mùi thơm.
Dưới đây xin giới thiệu những cách trị bệnh từ cây hoa dẻ để tham khảo và áp dụng khi cần.
* Chữa tê thấp, đau nhức gân xương, chân tay tê bại (Dùng phương “Bách gia chân tàng” là phương thuốc của Hải Thượng Lãn Ông, rễ cây dẻ phối hợp với các vị thuốc khác): Rễ hoa dẻ, rễ rung rúc, rễ gắm, vỏ thân ngũ gia bì chân chim, rễ bướm bụng, mỗi vị 80g; rễ sấm nam, rễ cỏ xước, rễ ô dược, rễ bướu bạc, rễ tầm xuân, tầm gửi, cây dâu, rễ bạch đồng nữ, mỗi vị 40g; rễ chỉ thiên, cả cây roi ngựa, mỗi vị 20g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, ngâm với 2 lít rượu trắng trong 1 – 2 tháng, càng lâu càng tốt. Ngày uống 2 lần, mỗi lần một chén nhỏ.
* Chữa ngộ độc nấm, mẩn ngứa, mụn nhọt của Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu): Dùng rễ hoa dẻ phối hợp với kim ngân hoa, mỗi vị 30g, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống làm 2 lần trong ngày để chữa ngộ độc nấm, mẩn ngứa, mụn nhọt.
* An thần, trấn tĩnh, chữa mất ngủ, ngủ không yên: Dùng hoa dẻ thu hái khi mới nở, đem phơi nắng nhẹ hoặc sấy lửa nhỏ để giữ mùi thơm: Lấy 8 – 16g hoa đã khô, cắt nhỏ hãm với nước sôi, uống 1 lần trước khi đi ngủ. Ngày uống 2 – 3 lần.

Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013


Một số bạn đọc gửi thư hỏi về bài thuốc “Tiêu đàm hóa ứ” dùng để chữa bệnh cao huyết áp. Thực ra không có bài thuốc nào mang tên như vậy, “tiêu đàm hóa ứ” trong y học cổ truyền là cụm từ chỉ chung những phương thuốc giúp tiêu ứ, tan đàm.



La bặc tử
Theo lương y Phạm Như Tá, trường hợp bị chứng tiêu đàm hóa ứ, người thầy thuốc Đông y hay dùng bài “Nhị trần thang” gia giảm. Nhị trần thang gồm có các vị thuốc sau: bán hạ chế (12 gr), trần bì (vỏ quýt – 10 gr), phục linh 8 gr, chích thảo 6 gr, sinh khương 3 gr, ô mai 1 quả. Đem tất cả sắc (nấu) để uống. Cách sắc như sau: cho các vị thuốc vào ấm đất sắc cùng 3 chén nước, nấu còn lại 1 chén, chắt ra; nước thứ hai cho tiếp 2 chén nước vào các vị thuốc, nấu còn lại nửa chén. Hòa hai nước lại chia làm 3 lần dùng trong ngày, dùng lúc nước thuốc còn ấm nóng.


Chích thảo
Lương y Phạm Như Tá cho hay, nhị trần thang được dùng trong chữa chứng đàm thấp gây ho, với các triệu chứng: ho đờm trắng, ngực đầy trướng, lợm giọng, buồn nôn, chân tay nhức mỏi, chóng mặt hồi hộp, rêu lưỡi trắng… Đây là một bài thuốc có tác dụng hóa đàm hòa vị nên được dùng khá rộng rãi cho các chứng bệnh sinh ra đàm như: phong đàm (do nhiễm phong tà mà gây bệnh) thì thêm vào các vị thuốc: nam tinh, bạch phụ tử, tạo giác, trúc lịch. Hàn đàm (do dương khí hư, nên hàn đàm và thấp tà kết hợp gây ra bệnh) thì thêm vị thuốc: can khương, tế tân. Nhiệt đàm (còn gọi là đàm hỏa, do ăn uống không điều độ gây ra) thì thêm các vị thuốc: qua lâu, hoàng cầm, thạch cao. Thực đàm (đàm kết tụ) thì thêm: la bặc tử, chỉ xác, sơn tra, mạch nha, thần khúc. Thấp đàm (đàm phát sinh do tỳ không vận hóa) thì thêm vị thuốc: thương truật, bạch truật.

Quả bơ không những là “thần dược” của sắc đẹp, ngăn cản tình trạng lão hóa, đẩy lùi bệnh tật mà còn tăng cường khả năng thụ thai ở những ca thụ tinh qua ống nghiệm.


Ngày càng có nhiều cuộc nghiên cứu giúp khám phá khả năng tiềm ẩn của trái bơ, loại trái cây không những vừa ngon miệng mà còn mang lại ích lợi vô vàn về mặt sức khỏe. Trong một nghiên cứu mới nhất về loại quả này, các chuyên gia Mỹ tại Bệnh viện đa khoa Massachusetts phát hiện một chế độ ăn kèm bơ và xà lách trộn dầu ô liu có thể tăng gấp 3 khả năng thụ thai thành công ở những phụ nữ đang cố gắng có con thông qua kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Theo tờ Daily Mail, thực phẩm chứa chất béo không bão hòa đơn thể, có nhiều trong dầu ô liu, dầu hạt hướng dương và các loại hạt, là bạn thân thiết của bất cứ phụ nữ nào đang ngóng đợi tin vui. Những người hấp thu loại chất béo trên nhiều nhất có tỷ lệ thụ thai cao gấp 3,4 lần thông qua IVF so với nhóm ăn ít nhất. Và thực phẩm tốt nhất cho các bà mẹ tương lai không gì khác ngoài trái bơ, theo trưởng nhóm nghiên cứu là giáo sư Jorge Chavarro.
Ngược lại, người hấp thu nhiều chất béo đã bão hòa, có trong bơ động vật và thịt đỏ, sản sinh ra ít trứng tốt hơn để có thể dùng thụ tinh. Đây cũng là lần đầu tiên các chuyên gia phát hiện công dụng hỗ trợ IVF của trái bơ và dầu ô liu, dạng thực phẩm chứa nhiều chất béo tốt cho thai phụ tương lai, theo báo cáo tại Tổ chức European Society of Human Reproduction and Embryology ở Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ).
Trước đó, các chuyên gia cũng phát hiện trái bơ có thể là “thần dược” của sắc đẹp, sau khi nó được phát hiện hỗ trợ cuộc chiến chống lão hóa và đẩy lùi bệnh tật. Kết quả nghiên cứu cho thấy một loạt các tác nhân môi trường, như ô nhiễm, khói thuốc lá và phóng xạ, có thể biến các phân tử ô xy bên trong ti thể thành các gốc tự do. Những phân tử bất ổn này hủy hoại toàn bộ các phân tử bình thường dùng để hình thành tế bào, như lipid, protein và thậm chí ADN, bằng cách biến chúng thành những phân tử gốc tự do. Hiện tượng tàn phá này có liên quan đến tình trạng lão hóa và dẫn đến nhiều dạng bệnh tật, bao gồm chứng tăng huyết áp và tiểu đường.
Nhiều cuộc nghiên cứu về chất chống ô xy hóa trong rau quả và trái cây, như cà rốt và cà chua, không cho kết quả đáng khích lệ như mong đợi. “Vấn đề ở đây là các chất chống ô xy hóa bên trong các loại trái cây đó không xâm nhập được vào ti thể”, theo chuyên gia Christian Cortes-Rojo của Đại học Michoacana de San Nicolas de Hidalgo (Mexico). Do đó, các gốc tự do tiếp tục tiến trình tàn phá ti thể, khiến việc sản xuất năng lượng ngừng lại và tế bào bị đẩy vào tình trạng bị hủy diệt.
Tuy nhiên, chuyên gia Cortes-Rojo đã công bố các kết quả nghiên cứu đầu tiên cho thấy hiệu quả bảo vệ ấn tượng của dầu trái bơ chống các gốc tự do bên trong ti thể. Theo đó, dầu quả bơ tăng cường khả năng hô hấp của ti thể, cho thấy các chất dinh dưỡng dùng để tạo ra năng lượng cho các chức năng của tế bào vẫn hoạt động hiệu quả dù nó đang bị các gốc tự do tấn công.
Một cuộc nghiên cứu khác do bác sĩ Mario Alvizouri-Munoz của Bệnh viện đa khoa Morelia tiến hành, cũng đã cho thấy trái bơ làm giảm nồng độ cholesterol và các chất béo có hại trong máu, loại trừ được nguy cơ đột quỵ hoặc đau tim.

Thứ Năm, 3 tháng 10, 2013

Măng tây được chia thành 2 loại xanh và trắng. Chúng ta có thể tìm thấy mangan, magnesium, sélenium, vitamin B1, B2, B3, B6, B9, C, A, E…, tóm lại là rất nhiều thành phần kháng ô xy hóa quan trọng trong đọt măng tây.


Tính năng
Tác dụng nhuận trường là không thể chối bỏ và được biết đến trong màng tế bào, trong việc giảm và thải bỏ sỏi thận, a xít uric (thấp khớp, thoái hóa khớp dạng thấp, thống phong…). Trong cơ chế hoạt động của tim – thận. Trong các trường hợp này, nước ép măng tây được dùng như một thức uống giúp thanh lọc, phục hồi khoáng chất, làm loãng máu, làm chậm lại trạng thái kích thích của tim. Măng tây tác động thải lọc gan và tất cả hệ thống thải như phổi, gan, ruột, da. Nó có tác động tốt cho hệ nội tiết.
Tuy nhiên, tính năng mà có lẽ người ta chú ý đến nhất là đối với ung thư. A xít folic (vitamin B9) có khả năng bảo vệ cơ thể khỏi ung thư phổi, tá tràng và tử cung. Glutathion là một protein nhỏ và thành phần kháng oxy hóa cực mạnh, giúp bảo vệ tế bào khỏi sự phát triển của ung thư. Một cuộc phân tích đối với 38 loại rau cải cho thấy măng tây tươi nấu chín đã đứng đầu danh sách về hàm lượng glutathion. Nhiều người đã dùng măng tây để trị liệu lâu dài chống ung thư và họ đã thấy hiệu quả rất khả quan. A xít folic cũng rất quý báu để ngăn ngừa các bệnh tim mạch, ngăn ngừa tai biến mạch máu não. Nó làm giảm tỷ lệ homocystéine máu – vốn là thành phần tích tụ làm tổn thương động mạch và hình thành khối máu đông.
Măng tây rất giàu inulin, một probiotic giúp cho các lợi khuẩn trong ruột khỏe mạnh. Măng tây còn giàu steroid, phytoestrogen, kích thích sản xuất testosteron (nội tiết tố nam). Theo một số tài liệu, người thời Trung cổ đã từng sử dụng măng tây như một liều thuốc gây hưng phấn tình dục.
Thưởng thức
Có thể chế biến măng tây theo nhiều cách, nhưng đơn giản nhất là luộc. Khi luộc măng nên để lửa nhỏ, ít nước và vớt ngay khi vừa chín tới. Ngoài ra còn có các món như canh măng cua, bò cuộn măng tây, salad măng tây, sò điệp xào măng tây… Những người dùng măng tây trị liệu ngăn ngừa ung thư thì thường nấu chín và xay nhuyễn để dùng hằng ngày.

Các nhà khoa học thuộc Trường đại học Missouri (Mỹ) phát hiện rằng apigenin, một chất tự nhiên có trong cần tây, mùi tây, có thể mở ra hướng điều trị bệnh ung thư vú.


Đó là nhờ hợp chất này có tác dụng làm teo khối u ung thư vú do progestin gây ra. Progestin là hormone tổng hợp thường được dùng để giảm các triệu chứng liên quan đến mãn kinh.
Theo hãng tin ANI, tác giả nghiên cứu Salman Hyder cùng các đồng nghiệp cấy ghép tế bào gây ung thư vú chết người, được gọi là BT-474, vào chuột thí nghiệm, được chia làm hai nhóm. Nhóm 1 được cho bổ sung medroxyprogesterone acetate (MPA), một loại progestin dành cho phụ nữ sau mãn kinh.
Nhóm 2 không bổ sung MPA. Nhóm 1 sau đó được điều trị với apigenin. Các chuyên gia nhận thấy, khối u ung thư lây lan nhanh chóng ở chuột không điều trị với apigenin. Còn ở chuột được điều trị apigenin, tăng trưởng của các tế bào ung thư vú giảm sút và khối u ung thư cũng bị teo lại.

Thứ Tư, 2 tháng 10, 2013

Cỏ ca ri hay hồ lô ba (danh pháp hai phần: Trigonella foenum-graecum) là một loài cây thuộc về họ Đậu (Fabaceae). Cỏ ca ri được sử dụng như là cây thuốc (phần lá) cũng như một loại gia vị (phần hạt). Nó được trồng rộng khắp trên thế giới như là một loại cây trồng bán khô hạn.


Tên gọi khoa học của cỏ ca ri là foenum-graecum có nguồn gốc từ tiếng La tinh để chỉ “cỏ khô Hy Lạp”. Zohary và Hopf lưu ý rằng người ta vẫn chưa chắc chắn nòi giống hoang dã nào của chi Trigonella đã tiến hóa để trở thành giống cỏ ca ri được con người trồng, nhưng tin rằng nó được đem vào gieo trồng lần đầu tiên tại khu vực Trung Cận Đông. Các hạt cỏ ca ri hóa than đã được phục hồi tại Tell Halal, Iraq (với niên đại cacbon phóng xạ là khoảng năm 4000 TCN) và tại các tầng thuộc thời kỳ đồ đồng ở Lachish (Shephelah, Israel), cũng như các hạt khô tìm thấy trong mộ của Tutankhamen [1]. Cato Già liệt kê cỏ ca ri cùng cỏ ba lá và đậu tằm như là các cây trồng để nuôi bò (De Agri Cultura, 27).
Các hạt cỏ ca ri màu vàng hay hổ phách, hình thoi, nói chung hay được sử dụng trong việc làm các món ngâm, bột ca ri khô và nhão, và nói chung hay bắt gặp trong các món ăn của ẩm thực Ấn Độ. Các lá non và chồi cỏ ca ri cũng được sử dụng làm rau ăn còn lá tươi hay khô được dùng để tạo hương vị trong nhiều món ăn khác. Các lá khô (người Ấn Độ gọi là kasuri methi) có vị đắng và mùi mạnh đặc trưng.
Tại Ấn Độ, các hạt cỏ ca ri được trộn với sữa chua và được dùng làm dầu dưỡng tóc. Nó cũng là một thành phần để sản xuất khakhra, một loại bánh mì. Nó được sử dụng trong injera/taita, một loại bánh mì chỉ có trong ẩm thực Ethiopia và ẩm thực Eritrea. Từ để chỉ cỏ ca ri trong tiếng Amhara là abesh (ኣብሽ), và tại đây nó được dùng làm cây thuốc để điều trị bệnh đái tháo đường. Nó đôi khi cũng được dùng như một thành phần để sản xuất một loại bơ (tiếng Amhara: qibé, Tigrinya tại Ethiopia và Eritrea: tesme), và nó là tương tự như ghee trong cách nói của người Ấn Độ. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, tên gọi của cỏ ca ri (çemen) cũng là tên gọi cho một loại bột nhão sử dụng trong pastirma (một món thịt bò ướp gia vị và đem phơi khô trong không khí). Tại Yemen, nó là gia vị chính và là một thành phần thêm vào món ăn dân tộc gọi là saltah. Sự tương tự giữa từ hulba trong tiếng Ả Rập và từ huluba trong tiếng Trung quan thoại biểu lộ tầm quan trọng của cỏ ca ri trong lịch sử. Cỏ ca ri, hay Şambélilé trong tiếng Ba Tư, là một trong bốn cây thuốc được sử dụng trong đơn thuốc của người Iran là ghormeh sabzi.
Tại Ai Cập, các hạt cỏ ca ri được dùng như chè.
Các hạt cỏ ca ri là nguồn giàu polysacarit galactomannan. Nó cũng là nguồn chứa các saponin như diosgenin, yamogenin, gitogenin, tigogenin và neotigogen. Các thành phần hoạt hóa sinh học khác còn có chất nhầy, tinh dầu và các ancaloit như cholin và trigonellin.
Hiệu ứng phụ khi sử dụng, thậm chí chỉ một lượng nhỏ cỏ ca ri (ngay cả khi pha loãng với nước) là mùi xi rô phong hay ca ri trong mồ hôi và nước tiểu, do hợp chất thơm sotolon gây ra. Cỏ ca ri cũng hay được dùng trong sản xuất chất tạo mùi cho các loại xi rô nhân tạo. Hương vị của cỏ ca ri nướng là do các pyrazin thay thế, giống như thì là Ai Cập (Cuminum cyminum). Tự bản thân nó thì nó có vị hơi đắng.
Hạt cỏ ca ri khô
Cỏ ca ri được sử dụng chủ yếu là hỗ trợ tiêu hóa. Nó là lý tưởng để điều trị rò xoang, sung huyết phổi, giảm viêm nhiễm [3]. Nó cũng được sử dụng trong vai trò của chất làm tăng tiết sữa cho các bà mẹ đang nuôi con bú. Nó có thể được tìm thấy trong dạng viên nang tại các hiệu thuốc thực phẩm[2].
Việc sử dụng hạt cỏ ca ri cho thấy nó có tác dụng hạ cholesterol, triglyxerit và các lipoprotein có tỷ trọng thấp ở người và các vật mẫu thực nghiệm (Basch và ctv., 2003). Several human intervention trials chứng minh rằng các hiệu ứng chống đái tháo đường của hạt cỏ ca ri cải thiện phần lớn các triệu chứng trao đổi chất có liên quan tới đái tháo đường kiểu 1 và kiểu 2 ở cả người lẫn các động vật thực nghiệm (Basch và ctv., 2003; Srinivas, 2005). Hiện tại, nó đã có bán dưới dạng viên nang theo các đơn thuốc như là chất bổ sung ăn kiêng để kiểm soát bệnh đái tháo đường và cao cholesterol.
Trong một số thí nghiệm gần đây, hạt cỏ ca ri có tác dụng chống lại ung thư vú (Amin và ctv., 2005) và ruột kết (Raju và ctv., 2006). Các tính chất bảo vệ gan của hạt cỏ ca ri cũng được thông báo trong một vài vật mẫu thực nghiệm (Raju và Bird, 2006;

Cây xạ đen có tên khoa học là Celastrus hindsii Benth.et Hook. Trong xạ đen có chứa các chất: Fanavolnoid (chất chống oxy hóa có tác dụng phòng chống ung thư); Saponin Triterbenoid (có tác dụng chống nhiễm khuẩn); Quinon (có tác dụng làm cho tế bào ung thư hóa lỏng dễ tiêu). Cây xạ đen có tác dụng phòng chống trong điều trị ung thư, hạn chế phát triển của các khối u; tiêu viêm giải độc, mát gan; ăn ngủ tốt, tăng cường sức đề kháng của cơ thể.


Một số bệnh nhân có bệnh đường tiêu hóa nói chung (viêm loét dạ dày, tá tràng; ung thư dạ dày mới phát hiện; viêm gan mạn tính; xơ gan đơn thuần hoặc ung thư gan giai đoạn đầu; sau mổ sỏi túi mật; viêm đại tràng mạn tính; rối loạn tiêu hóa, ăn chậm tiêu, táo bón…) đã uống nước sắc từ cây xạ đen, một số người dùng thấy có kết quả phần nào.
Tuy nhiên, cũng cần biết rằng, dù sử dụng loại nam dược nào cũng tùy thuộc vào cơ địa của mỗi bệnh nhân, không phải bệnh nhân nào dùng cũng đạt kết quả như nhau được. Nhưng với cây xạ đen, theo chúng tôi được biết từ năm 2003 đã qua nhiều ứng dụng lâm sàng trong nước, nhưng chưa có một tác dụng phụ nào.
Có thể dùng xạ đen như sau: lấy 100 gam xạ đen rửa thật sạch cho vào siêu đất với 800 ml nước, đun sôi trên 30 phút rồi gạn lấy nước uống thay cho nước uống khác trong ngày. Dùng khi nào nước sắc nhạt màu thì thay ấm khác. Nước xạ đen nếu để trong tủ lạnh càng thơm ngon, rất dễ uống.

Thứ Ba, 1 tháng 10, 2013

Cây huệ rừng tên khoa học  Dianella ensifolia. Chúng sinh trưởng rất nhiều ở những nơi có độ cao khoảng 1.600 m so với mực nước biển.

Cây có vị cay, tính ấm, có độc nhiều; có tác dụng khử phong, khử độc sát trùng, lợi niệu. Ở Trung Quốc và Malaysia, người ta dùng thân, rễ cây này để chế thành thuốc chữa mụn rộp mọc vòng, mụn nhọt, ghẻ ngứa… Cách sinh sản là lây lan qua thân rễ ngầm và ra hoa vào cuối mùa xuân.


Bệnh rọm, một căn bệnh làm người mắc phải vô cùng đau đớn, dẫn tới dị tật tay chân.
Bệnh rọm là bệnh nhiễm trùng, thường xuất hiện ở bàn tay, chân gây đau nhức, dẫn đến hoại tử nhưng điều trị kháng sinh thường không khỏi. Bệnh có triệu chứng giống với các loại ung nhọt có mủ xanh bên trong, nhưng nếu can thiệp bằng giải phẫu, hay chích nặn mủ bằng các vật kim loại, thường sẽ làm cho bệnh trầm trọng hơn. Có nhiều bệnh nhân, sau khi nằm viện điều trị kháng sinh không khỏi phải tháo khớp, cắt bớt ngón tay, ngón chân mà bệnh vẫn không hết, tiếp tục ăn vào cả vết mổ, gây trầm trọng hơn.
Theo người dân vùng núi, bệnh rọm do râu mép của con cọp (hổ) khi về già rụi tàn để lại một loại vi khuẩn ký sinh vào cây cối, khi người ta đụng phải nó thì gây nên bệnh rọm… Bệnh thường nhiễm qua bàn tay, chân, biểu hiện ban đầu là vừa nhức vừa ngứa, khi sưng lên thường xuất hiện vệt trắng nhỏ hình bầu dục có tia nhỏ chung quanh.
Có ba loại dược liệu không thể thiếu là cây thuốc rọm, phèn chua và lá chuối tiêu. Sau khi bào chế, miếng thuốc được đắp vào vùng nhiễm trùng của người bệnh, người nhẹ thì vài ba ngày lành, nặng thì phải gần ba tuần. Nguyên tắc là thuốc phải được đắp đều đặn đến khi nào hết đau nhức, liền da…

Sắn dây có những bộ phận thường dùng: củ (còn gọi là cát căn), hoa (cát hoa), dây (cát căn đằng), bột từ củ sắn dây gọi là cát phấn… Sau đây là những bài thuốc trị bệnh từ loại cây này. 


1. Cát căn: theo Đông y, củ sắn dây có vị ngọt, mát, tính bình, đi vào kinh tỳ, vị, phế, bàng quang, có tác dụng thanh nhiệt, giải cơ (chứng cổ gáy bị cứng do cảm nắng, huyết áp cao). Củ sắn cạo sạch vỏ ngoài, thái mỏng theo chiều dọc, phơi khô dùng làm thuốc trị cảm nắng, khô cổ khát nước, ban sởi không mọc được. Mỗi lần nấu từ 8-30 gr, có thể nướng vàng (hay sao vàng) rồi nấu nước uống. Củ sắn dây đem nướng vàng, rồi sắc hoặc tán bột dùng có tác dụng trị tiêu chảy khó tiêu. Ngoài ra, củ sắn dây tươi đem rửa sạch, luộc mềm, ăn sẽ tốt cho tỳ vị và mát cơ thể.
2. Cát hoa: dùng 20-40 gr hoa sắn dây (loại khô) đem nấu nước uống, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, nhất là giải rượu.
3. Cát căn đằng: dùng dây sắn đốt tồn tính (đốt chưa cháy hoàn toàn) rồi đem tán bột, uống với nước có tác dụng trị viêm họng, viêm thanh quản cấp tính.
4. Cát phấn: bột củ sắn dây đem pha với nước lọc, đường, chanh trị chứng cảm nắng đau đầu, khô mũi, tiểu vàng. Bột sắn dây còn trị được kiết lỵ do ăn nhiều thức ăn cay, nóng – bằng cách hòa bột với nước cho tan đều, thêm vào một ít đường, rồi bắc lên bếp, khuấy đều tay đến khi dung dịch này đặc lại là dùng được. Hoặc chế biến “chè bông cau” từ bột củ sắn dây, bằng cách: Đậu xanh đã cà vỡ đem ngâm trong nước cùng một ít muối trong 2 giờ. Nấu nồi nước sôi, cho đậu xanh vào nấu đến khi đậu thật mềm. Dùng bột sắn dây đã hòa tan trong nước lạnh cho từ từ vào nồi đậu xanh, vừa cho vào vừa khuấy đều tay, rồi cho đường, hương liệu vào. Chờ sôi lại khoảng 2 phút chè trong nồi chuyển từ trắng đục sang trong. Món chè này có tác dụng thanh nhiệt, bồi bổ cơ thể.
Trồng 1 gốc sắn dây, mỗi gốc chỉ mất khoảng 2m2 đất, 5kg phân NPK, 1 ít phân chuồng, vài kg kali nhưng thu được từ 55-60 kg củ sắn tươi, chế biến được 10 kg bột sắn khô. Mỗi kg bột sắn khô bán trên thị trường với giá từ 45.000-55.000 đồng. Cây sắn dây được trồng từ khoảng tháng giêng, tháng hai và thu hoạch vào tháng Chạp. Nó có ưu điểm là trồng để tận dụng đất trong vườn nhà, dễ trồng, có thể chống chọi được với thời tiết khô hạn và lạnh giá, lại không bị sâu bệnh phá hại.
5 – Một số ứng dụng cụ thể khác
- Chảy máu mũi suốt ngày không ngừng, tâm thần phiền muộn: Củ sắn dây tươi giã nát, vắt lấy nước cốt, uống mỗi lần một chén con.
- Rắn cắn: Giã lá sắn dây tươi vắt lấy nước uống, bã đắp lên nơi rắn cắn.
- Vết thương chảy nhiều máu: Dùng lá sắn dây tươi giã nát, đắp vào vết thương.
- Viêm ruột, đau bụng đi ngoài giống kiết lỵ, cồn cào, buồn bực, nôn ọe do uống nhầm các thứ thuốc nóng hoặc quá mãnh liệt: Dùng bột sắn dây quấy đường uống; hoặc dùng cát căn 30 g, rau má 20 g giã nát, chế thêm nước, vắt lấy nước cốt uống trong ngày.
- Trẻ sơ sinh miệng mím chặt, sùi bọt mép, không bú được: Lấy một đoạn dây sắn dây đốt thành than, nghiền mịn, dùng khoảng 3-5 g bột hòa với sữa mẹ, nhỏ vào miệng trẻ. Làm như vậy vài lần trẻ sẽ mở miệng và bú được.
- Ngực nóng, thổ huyết không ngừng: Củ sắn dây tươi giã nát, vắt lấy 500 ml uống.
Design by Hao Tran -