Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

Hà thủ ô và những bài thuốc


Xuất xứ: Khai Bảo Bản Thảo.

Tên gọi: Vị thuốc này trong bản thảo không có, vì ông Hà thấy ban đêm dây quấn vào nhau như là giao hợp, họ Hà thấy vậy, đào rễ lấy củ ăn, nhờ thế mà khỏe mạnh, sau đó người ta bắt chước ăn cũng thấy có hiệu quả, nên lấy người đầu tiên dùng nó mà gọi tên (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).


Tên khác: Giao đằng, Dạ hợp, Địa tinh (Bản Truyện), Trần tri bạch (Khai Bảo Bản Thảo), Đào liễu đằng (Nhật Hoa Tử Bản Thảo), Sơn nô, Sơn ca, Sơn bá Sơn ông, Sơn tinh (Đồ Kinh Bản Thảo), Xích cát (Đẩu Môn), Mã can thạch, Cửu chân đằng, Sang chửu (Bản Thảo Cương Mục), Hồng nội tiêu (Ngoại Khoa Tinh Nghĩa), Giao hành, Dã miêu, Kim Hương Thảo (Hòa Hán Dược Khảo), Chế thủ ô, Tiên Thủ Ô (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển), Dây sùng bò, Dây sữa bò, Hà thủ ô nam (Dược Liệu Việt Nam).
Tên khoa học: Polygonum multiflorum Thunb. (Pteuropterus cordatus Turcz).
Họ khoa học: Thuộc họ Rau Răm (Polygonaceae).
Mô tả:
Dây leo, sống nhiều năm. Thân rễ phồng thành củ. Thân quấn, mọc xoắn vào nhau, mặt ngoài thân có màu xanh tía, nhẵn, có vân. Lá mọc so le, có cuống dài. Phiến lá hình tim, dài 4 – 8cm, rộng 2,5 – 5cm, đầu nhọn, mép nguyên hoặc hơi lượn sóng, cả hai mặt đều nhẵn. Bẹ chìa mỏng, màu nâu nhạt, ôm lấy thân. Hoa tự chùm nhiều nhánh. Hoa nhỏ, đường kính 2mm, mọc cách xa nhau ở kẽ những lá bắc ngắn, mỏng. Bao hoa màu trắng, 8 nhụy (trong số đó có 3 nhụy hơi dài hơn). Bầu hoa có 3 cạnh, 3 vòi ngắn rời nhau. Đầu nhụy hình mào gà rủ xuống. Quả 3 góc, nhẵn bóng, đựng trong bao hoa còn lại, 3 bộ phận ngoài của bao hoa phát triển thành cánh rộng, mỏng, nguyên.
Địa lý: Mọc hoang nhiều ở Hoàng Liên Sơn, Sơn La, Lai Châu, Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, Hà Tuyên, miền Bắc Việt Nam.
Thu hái, sơ chế: Thu họach khoảng tháng 8, đào lấy củ, rửa sạch, cắt bỏ rễ con. Củ nhỏ để nguyên, củ to bổ đôi, phơi hay sấy khô tới độ ẩm dưới 13o.
Phần dùng làm thuốc: Rễ củ (Radix Polygoni multiflori). Loại rễ củ to đường kính trên 4 cm, khô, vỏ nâu sẫm, cứng đỏ chắc, nhiều bột, ít xơ, không mốc mọt là tốt
Mô tả dược liệu:
Rễ để nguyên hay cắt thành từng miếng lớn nhỏ không đều nhau. Loại nguyên hơi giống củ khoai lang lớn, mặt ngoài màu nâu đỏ có nhiều chỗ lồi lõm, đặc sắc. Mặt cắt ngang để lộ lớp bần màu nâu đỏ, mô mềm, vỏ màu nâu hồng có nhiều bột, giữa có gỗ hẹp, chất cứng, hơi nặng, không mùi, vị hơi chát (Dược Tài Học).
Bảo quản: Để nơi khô râm, năng đem phơi chống mối mọt
Thành phần hóa học:
+ Có Lecithin 3,7%, các dẫn chất Oxymethylanthraquinone 1, 1-1,8%, chủ yếu có Rheiphenol, Đại hoàng tố, Rhein… Ngoài ra còn có chất bột 45%, chất béo 3, 1%, chất vô cơ 4,5% (Trung Dược Học).
+ Emodin, Chrysophanol, Physcion, Rhein, Chrysophanol anthrone (Hata K, và cộng sự – Tạp Chí Dược Học [Nhật Bản] 1975, 95 (2): 211).
+ Resveratrol, 2,3,5,4’ – Tetrahydroystilbene-2-O-b-D-Glucopyranoside (Shigera Y, và cộng sự, C A, 1986, 105: 214090g).
+ 2,3,5,4’ – Tetrahydroystilbene-2-O-b-D-Glucopyranoside 2”-O-Monogalloyl Ester, 2,3,5,4’ – Tetrahydroystilbene-2-O-b-D-Glucopyranoside-3”-O-Monogalloyl Ester (Nonaka, G, và cộng sự, Phytochemistry 1982, 21: 429).
+ Gallic acid, Catechin, Epicatechin, 3-O-Galloyl (-) –Catechin, 3-O-Galoyl (-) –Epicatechin, 3-O-Galoyl-Procianidin B2, 3,3’-di-O-Galoyl-Procyanidin B2 (Nonaka, G, và cộng sự, Phytochemistry 1982, 21: 429).
+ b-Sitosterol (Nghiêm Quý Mẫn, Thượng Hải Đệ Nhất y Học Viện Học Báo 1981, (8): 123).
Tác dụng dược lý:
+ Hà thủ ô có tác dụng hạ Cholesterol máu, được chứng minh rõ trên mô hình gây Cholesterol cao ở thỏ nhà, thuốc còn có tác dụng làm giảm hấp thu Cholesterol của ruột thỏ, theo tác giả, thuốc có thành phần hữu hiệu kết hợp với Cholesterol (Tư Liệu Tham Khảo Tân Y học (l) 5-6, 1972) (Trung Dược Ứng Dụng Lâm Sàng).
Thuốc có tác dụng phòng chống và giảm nhẹ xơ cứng động mạch. Có thể tác dụng giảm xơ cứng động mạch là do thuốc có thành phần Lecithin (Tư Liệu Tham Khảo Tân Y học (l) 5-6, 1972).
+ Thuốc làm chậïm nhịp tim, làm tăng nhẹ lưu lượng máu động mạch vành và bảo vệ được cơ tim thiếu máu (Trung Dược Học).
+ Thuốc có khả năng nâng cao sức chống lạnh của chuột nhắt. Hà thủ ô trắng có tác dụng tăng cường miễn dịch (Trung Dược Học).
+ Thuốc giữ được tuyến ức của chuột nhắt gìa không bị teo mà giữ được mức như lúc chuột còn non tác dụng này có ý nghĩa chống lão hóa nhưng cơ chế còn cần nghiên cứu thêm (Hiện Đại Thực Dụng Trung Dược).
+ Thuốc có tác dụng nhuận trường do dẫn chất Oxymethylanthraquinone làm tăng nhu động ruột (Trích Yếu Văn Kiện Nghiên Cứu Trung Dược, Nhà xuất bản Khoa học xuất bản năm 1965, tr. 845-346).
+ Hà thủ ô sống tác dụng nhuận trường mạnh hơn Hà thủ ô chín (Hiện Đại Thực Dụng Trung Dược).
Tác dụng kháng khuẩn và virut: Thuốc có tác dụng ức chế đối với tnực khuẩn lao ở người và trực khuẩn lỵ Flexner (Trung Dược Học).
Thuốc có tác dụng ức chế virut cúm (Vi Sinh Vật Học Báo 8 (2) 164, 1960).
+ Glucozit Hà thủ ô trắng có tác dụng ức chế tế bào ung thư (Trung Dược Học).
Tính vị:
+ Vị ngọt, tính ôn, không độc (Hà Thủ Ô Lục).
+ Vị đắng, tính sáp, hơi ôn, không độc (Khai Bảo Hùng Định Bản Thảo).
+ Dùng sống khí hàn, tính liễm, có độc. Chế bằng cách nấu chín (thục) thì khí ôn, không độc (Bản Thảo Hội Ngôn). + Vị đắng, ngọt, tính sáp, hơi ôn (Trung Dược Học).
+ Vị đắng, ngọt, chát, tính ấm (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Quy kinh:
+ Vào kinh túc quyết âm, thiếu âm (Bản Thảo Cương Mục).
+ Vào kinh túc thiếu dương đởm kinh, thủ thiếu dương tam tiêu kinh, thủ thiếu âm tâm kinh, túc thiếu âm thận kinh (Bản Thảo Kinh Giải).
+ Vào 3 kinh Tỳ, Phế, Thận (Bản Thảo Tái Tân).
+ Vào kinh Can, Thận (Trung Dược Học).
+ Vào kinh Can và Thận (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tác dụng:
+ Ích can, liễm huyết, tư âm, triệt hư ngược, chỉ thận tả (Dược Phẩm Hóa Nghĩa).
+ Bổ phế hư, chỉ thổ huyết (Bản Thảo Tái Tân).
+ Bổ ích tinh huyết (Chế Thủ ô), dùng sống có tác dụng giải độc, triệt ngược, nhuận tràng, thông tiện (Trung Dược Học).
+ Tư âm cường tráng (Trung Dược Ứng Dụng Lâm Sàng).
+ Bổ huyết, cố tinh, dưỡng can, nhuận trường, đồng thời có tác dụng tri sốt rét (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Chủ trị:
+ Trị ngũ trĩ, bệnh ở lưng gối, làm mạnh gân lực, ích tinh tủy, tráng khí, làm đen tóc, kéo dài tuổi thọ, trị bệnh phụ nữ sau sanh, xích bạch đới, lỵ lâu ngày không khỏi (Hà Thủ Ô Lục).
+ Uống lâu dễ có con, trị bệnh ở bụng, các chứng lãnh khí truờng phong (Nhật Hoa Tử Bản Thảo).
+ Trị trúng phong, đầu thống, hành tý, hạc tất phong, động kinh, hoàng đản (Bản Thảo Thuật).
+ Trị chứng tinh huyết hư, sốt rét lâu ngày, ung sang độc, chứng loa lịch, chứng táo bón (Trung Dược Học).
+ Trị di tinh, đới hạ, lưng gối đau ê ẩm, râu tóc bạc sớm, gan viêm mãn tính, suy nhược thần kinh (Trung Dược Học).
Liều lượng: 12g-40g. Bổ huyết nên dùng Chế thủ ô, thông tiện nên dùng Sinh thủ ô.
Kiêng kỵ.
+ Kỵ các loại huyết, cá có vảy, Tỏi, Hành, Cải, đồ sắt thép (Bản Thảo Kinh Giải).
+ Hợp với Địa hoàng, có thể phục được Châu sa (Bản Thảo Kinh Giải).
+ Người có thực tà, đờm thấp nặng: kiêng dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị phong cùi, dùng Hà thủ ô củ lớn, loại có hoa văn mới tốt, l cân, ngâm vơi nước vo gạo một đêm, cửu chưng cửu sái, Hồ ma 160g, cửu chưng cửu sái, rồi tán bột, mỗi lần. Uống 8g với rượu, ngày 2 lần (Thánh Huệ phương)
+ Trị tiêu ra máu không cầm: dùng Hà thủ ô 80g, tán bột, uống với nước cơm trước khi ăn, mỗi lần 8g (Thánh Huệ phương).
+ Trị tràng nhạc ở cổ đã vớ hoặc chưa vớ, chạy xuống tới ngực trước,: Dùng Hà thủ ô rửa sạch nhai sống hàng ngày, đồng thời lấy lá gĩa rồi đắp lên nhiều lần thì khỏi, bài này có thể uống lâu ngày làm sống lâu và râu tóc đen (Đẩu Môn phướng).
+ Uống hoặc ăn Hà thủ ô có tác dụng tư bổ, ‘Hà Thủ Ô Hoàn” chuyên mạnh gân cốt, đầy tinh tủy, bổ khí huyết, uống lâu đen râu tóc, mạnh sinh lý, có nhiều con cái, nhẹ người, sống lâu. Dùng Hà thủ ô, lấy dao bằng đồng cắt lát, nếu khô thì ngâm vơi nước vo gạo cho mềm để cắt, Ngưu tất (bỏ mầm non) 1-3 cân, xắt lát, lắy 1 đấu Đậu đen rửa sạch, dùng gỗ hoặc tre đan làm giá, cứ bỏ một lớp đậu, một lớp Hà thủ ô và Ngưu tất, sắp nhiều lớp cho tới khi hết, chưng nấu cho tới khi đậu chín, lấy ra, bỏ đậu đi, phơi khô, làm như thế cho được 3 lần rồi tán bột, lấy Đại táo chưng rồi trộn thuốc làm viên bằng hạt ngô đồng lớn, mỗi lần uống từ 30 – 50 viên với rượu ấm lúc còn bụng đói (Hòa Tễ Cục phương).
+ Mạnh gân cốt, đầy tinh tủy, bổ khí huyết, uống lâu đen râu tóc, mạnh sinh lý, có nhiều con cái, nhẹ người, sống lâu: dùng Hà thủ ô trắng và Hà thủ ô đỏ mỗi thứ nửa cân, cạo bỏ vỏ, phơi âm can, lấy cối chầy đá tán bột, uống mỗi buổi sáng 4g với giấm (Trịnh Nham Sơn Trung Thừa phương).
+ Mạnh gân cốt, đầy tinh tủy, bổ khí huyết, uống lâu đen râu tóc, mạnh sinh lý, có nhiều con cái, nhẹ người, sống lâu: dùng Hà thủ ô đỏ và Hà thủ ô trắng mỗi thứ một nửa, loại củ thật lớn, chọn vào tháng 8, lấy dao tre cạo bỏ vỏ, xắt lát, ngâm một đêm với nươc vo gạo, đem phơi nắng cho khô, lấy sữa bà mẹ đẻ con trai khỏe mạnh tẩm vào rồi phơi khô 3 lần như thế, bỏ vào cối đá gĩa thành bột, trộn với mật ong và Táo nhục làm thành viên to bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 20 viên, sau 10 ngày thêm 10 viên, tới 100 viên thì được, uống với rượu nóng lúc đói. Có bài không dùng sữa người (Tích Thiện Đường phương).
+ Mạnh gân cốt, đầy tinh tủy, bổ khí huyết, uống lâu đen râu tóc, mạnh sinh lý, có nhiều con cái, nhẹ người, sống lâu: dùng Hà thủ ô đực, cái (đỏ, trắng) mỗi thứ nửa cân, chia làm 4 phần, một phần ngâm với nước Đương quy, một phần ngâm với nước Sinh địa, một phần ngâm với nước Hạn liên thảo, một phần ngâm với sữa người. Sau 3 ngày lấy ra, phơi nắng riêng ra, sấy trên ngói cho khô, bỏ vào cối đá gĩa thành bột, chưng nhục Đại táo cho nhuyễn, làm viên to bằng hạt ngô đồng lớn, mỗi lần uống 40 viên lúc đói (Bút Phong Tạp Hứng).
+ Ấm tinh huyết đen râu tóc đẹp nhan sác, sống lâu dùng Hà thủ ô, Cam cúc hoa, Câu kỷ tử, Địa hoàng, Ngưu tất, Thiên môn đông, Xích phục linh., Bạch phục linh, Tang thầm, Nam chúc tử (Bút Phong Tạp Hứng).
+ Trị vết thương chảy máu, dùng bột Hà thủ ô xức vào, cầm ngay (Bút Phong Tạp Hứng).
+ Khoan khoái gân xương, tổn thương do chấn thương: dùng Hà thủ ô 10 cân, đậu Đen sống nửa cân. Tất cả nấu chín, Tạo giáp 1 cân đốt tồn tính. Khiên ngưu 400g, sao, tán bột, Bạc hà 400g, Mộc hương, Ngưu tất mỗi thứ 200g, Xuyên ô đầu mao (ngâm nước sôi) 80g, tán bột. Tất cả trộn với rượu thành viên to bằng hạt ngô đồng lớn, lần uống 30 viên với nước trà (Vĩnh Loại Kiềm phương).
+ Mồ hôi tự chảy không cầm: dùng bột Hà thủ ô trộn nước miếng đắp giữa rốn (Tập Giản phương)
+ Trị trẻ nhỏ lưng rùa (qui bối): lấy nước tiểu Rùa trộn với bột Hà thủ ô dán vào các đốt xương gù lên, lâu ngày thì bớt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị trong da có cảm giác đau như không biết đau ở nơi nào: dùng Hà thủ ô tán bột, trộn nước cốt gừng thành cao đắp vào, rồi chườm nóng bên ngoài (Kinh Nghiệm Phương – Trung Quốc Dược Học Đaị Từ Điển).
+ Trị tà sốt rét nhập vào âm phận lâu ngày không hết: dùng Hà thủ ô, Ngưu tất, Miết giáp, Quất hồng, Thanh bì, nếu khí ở biểu đã hư, tỳ vị đã yếu, thì thêm Nhân sâm 12- 20g, phế nhiệt thì bỏ Nhân sâm mà thế Đương quy vào (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị các loại phong ở đầu mặt, phong cùi: Hà thủ ô, Thích tật lê, Cam cúc hoa, Thiên môn đông, Hồ ma nhân, Tất diệp, Bạch chỉ, Kinh giới tuệ, Khổ sâm, Địa hoàng, Bách bộ (Trung Dược Học).
+ Trị kiết lỵ ra toàn máu dùng các loại thuốc không có hiệu quả, dùng Hà thủ ô, Kim ngân hoa, Địa du, Tê giác, Thảo thạch tàm, Sơn đậu căn, Hoàng liên, Thược dược, Can cát, Thăng ma, Cam thảo, Hoạt thạch (Trung Dược Học).
+ Trị ‘Cốt nhuyễn phong’, lưng gối đau nhức, đi đứng không được, ngứa toàn thân: đùng Hà thủ ô củ lớn mà có hoa văn 1 cân, Ngưu tất 1 cân, với một thăng rượu ngon, ngâm 1 đêm rồi phơi nắng cho khô (khi dùng Hà thủ ô đừng dùng vật có chất sắt thép), luyện mật làm viên, uống lúc đói trước khi ăn, mỗi lần 30 – 50 viên với rượu. Có thể trị được thêm chứng phong đàm hoặc sốt rét lâu ngày không lành (Kinh Nghiệm Phương).
+ ‘Thất Bảo Mỹ Nhiệm Đơn’ là bài thuốc trứ danh có Hà thủ ô, dùng để bổ thận khí, đen râu tóc, sống lâu khỏe mạnh (theo Thiệu Tiết Ứng), dùng Hà thủ ô vừa loại trắêng, vừa loại đỏ, mỗi thứ 1 cân, Ngưu tất 320g (trước tiên ngâm Hà thủ ô với nước vo gạo 1 ngày đêm, rồi lấy dao tre cạo bỏ vỏ ngoài xắt thành lát lớn, lấy đậu Đen rải một lớp rồi sau đó bỏ một lớp Hà thủ ô lên, lại tới lớp Ngưu tất, Cứ như thế mà rải thuốc ở trên đậu. Nấu cho chín, bỏ đậu đi chỉ lấy thuốc phơi khô. Nấu phơi như thế cho được 7 lần, xong bỏ đậu Đen đi, Phá cố chỉ nửa cân (ngâm rửa rượu rồi sao với Hắc chi ma (Mè đen) cho tới khi nào hết nghe nổ lốp bốp là được), lấy Bạch phục linh nửa cân, tẩm sữa trâu phơi nắng rồi chưng, Thỏ ty tử nửa cân ngâm rượu 1 đêm, rửa rồi phơi khô, chưng như thế cho được hai lần, Câu kỷ tử nửa cân (bỏ núm khô ở sau). Tất cả tán bột, trộn với mật làm viên, to bằng bạt Long nhãn lớn, ngày uống 3 viên, nhai lúc bụng đói với rượu nóng hoặc nước cơm, nước muối nhạt. Khi chế không được dùng đồ bằng sắt, thiếc (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị chứng huyết hư, cơ thể suy nhược, có triệu chứng lưng gối nhức mỏi, váng đầu, hoa mắt, tóc bạc sớm, di tinh, huyết trắng nhiều, dùng: Hà thủ ô 20g, Thỏ ty tử 12g, Đương qui 12g, Ngưu tất 12g, Bổ cốt chỉ 12g, tán bột mịn, luyện hoàn vớỉ mật ong. Mỗi ìần uống 8-12g, ngày 2 lần với nước sôi nguội hoặc nước muối nhạt (Hà Thủ Ô Hoàn – Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Trị mất ngủ do huyết hư, dùng bài: Chế Hà thủ ô, Bắc sa sâm, Qui bản, Long cốt, Bạch thược mỗi thứ 12g, sắc uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Trị thận yếu, đau lưng mỏi gối, di tinh nặng hoăc băng lậu, đái hạ, sinh dục yếu, dùng bài: Thất Bảo Mỹ Nhiệm Đơn của Thiệu Ứng Tiết: Chế Thủ ô 20g, Bạch phục linh, Ngưu tất, Đương qui, Thỏ ti tử, Phá cố chỉ, mỗi thứ 12g, luyện mật làm hoàn, mỗi lần 12g, ngày 2 lần (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+ Trị Lipit huyết cao, xơ cứng động mạch, huyết áp cao, bệnh động mạch vành: có tác dụng làm giảm hoặc hết triệu chứng, ổn định bệnh, làm tăng sức, thường hợp với Ngân hạnh diệp, Câu đằng (Trung Dược Ứng Dụng Lâm Sàng).
+ Có công trình nghiên cứu dùng viên Hà Thủ Ô (mỗi viên nang 0,25g, gồm thuốc sống 0,81, trong đó 30% bột Hà thủ ô, 70% cao nước chế thành), mỗi lần uống 5-6 viên (có người uống 8 -10 viên), ngày 3 lần, dùng thuốc liên tục trong 2-12 tuần, lâu nhất 14 tháng, trị 178 ca Cholesterol máu cao. Kết quả tốt 38,2%, tiến bộ 23,6%, tỷ lệ kết quả 61,8%. Cholesterol máu giảm bình quân 39mg%, trong đó 32% bệnh nhân giảm xuống mức bình thường, đối với bệnh nhân vừa và cao, kết quả tốt (Bệnh Viện Nhân Dân Thượng Hải Số 8 Trực Thuộc Y Học Viện Thượng Hải Số 2: ‘Theo Dõi Lâm Sàng Chứng Cholesterol Cao Điều Trị Bằng Viên Hà Thủ Ô’, báo Công Nghiệp Y Dược 1974, 6: l).
+ Trị huyết áp cao: Chế Thủ ô, Sinh địa, Huyền sâm, Sinh bạch thược, Nữ trinh tử, Hạn liên thảo, Sa Uyển tật lê, Hy thiêm thảo, Tang ký sinh, Hoài ngưu tất, mỗi thứ 12g, sắc nước uống (Hà Thủ Ô Hợp Tể – Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Trị sốt rét lâu ngày, phần âm bị tổn thương khó lành, dùng:
. Hà thủ ô 40g, Sài hồ 12g, đậu đen 20g, sắc nước phơi sương l đêm, sáng hầm lên uống nóng (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
. Hà thủ ô (chế) 16g, Đảng sâm, Đương qui, Trần bì, Ổi khương, mỗi thứ 12g, sắc ụống (Hà Nhân Ẩm – Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Trị táo bón do huyết hư, tân dịch hao tổn: Hà thủ ô 20-40g, sắc nước uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Trị suy nhược thần kinh, mất ngủ: Thường phối hợp với các vị: Từ thạch, Đơn sâm, Ngũ vị tủ, Toan táo nhân, Xuyên khung (lượng nhỏ) có kết quả (Trung Dược Ứng Dụng Lâm Sàng).
+ Có tác giả dùng dịch tiêm Hà thủ ô 20% tiêm bắp mỗi lần 4ml, ngày 1 lần, 20-30 ngày là một liệu trình; trường hợp nặng chích 1 ngày 2 lần, cách nhật, liệu trình 15-20 ngày, nghỉ 15-20 ngày, ngủ khá hơn thì chích ngày 1 lần hoặc uống Hà thủ ô mỗi lần 5-7 viên (0,5g/viên), ngày 3 lần; trường hợp uống lâu dài, ngày 2 lần sáng và tối; truờng hợp bệnh nhẹ hoặc bệnh giảm, mỗi tốt uống 6-10 viên trước lúc ngủ. Uống và chích thay đổi dùng. Đã trị 141 ca, khỏi lâm sàng 53,9%, tiến bộ tốt 44,7%, tỉ lệ có kết quả 98,6%, theo tác giả tốt hơn loại thuốc ngủ Bromure và Meprobamate (Bệnh Viện 201 Giải Phóng Quân, ‘Phân Tích Lâm Sàng 141 Ca Mất Ngủ Trị Bằng Hà Thủ Ô’, Thông Tin Trung Thảo Dược 1974, 5: 38).
+ Trị ho gà: Hà thủ ô 6- 12g, Cam thảo 1,5-3g, mỗi ngày 1 thang, sắc, chia 4-6 lần uống, có người uống xong tiêu chảy nhẹ, dùng Kha tử hoặc Anh túc xác (cho cầm lại). Đã trị 35 ca khỏi 19 ca, cơ bản khỏi 8 ca, tiến bộ 4 ca, không kết quả 1 ca (Vương Khởi Minh, ‘Báo Cáo Về Kết Quả Bước Đầu Điều Trị Ho Gà Bằng Hà Thủ Ô’, Trung Y Giang Tô Tạp Chí 1965, 3: 10)
+ Trị sốt rét: Hà thủ ô 18-25g, Cam thảo 1,5-3g, trẻ em giảm lượng, sắc đặc sau 2 giờ, chia 3 lần uống trước bữa ăn. Trị 17 ca kết quả đều tốt (Vương Khởi Minh, ‘Báo Cáo 17 Ca Sốt Rét Điều Trị Bằng Hà Thủ Ô’, Quảng Đông Y Học Học Báo 1964, 4: 31).
+ Trị tóc bạc: Chế thủ ô, Thục địa hoàng mỗi thứ 30g, Đương qui 15g, ngâm vào 1 lít rượu trắng 10-15 ngày sau, dùng mỗi lần 15-30ml, uống liên tục cho đến có kết qủa. Điều trị 86 ca (20 ca bạc từng đám, 16 ca rải rác bệnh kéo dài từ l đến 10 năm, kết quả khỏi 24 ca, tiến bộ 8 ca, tỷ lệ kết quả 88,9% (Triệu Hồng Bân, ‘Rượu Hà Thủ Ô Trị Tóc Bạc’, Sơn Đông Trung Y Tạp Chí 1983, 4: 41).
+ Trị tổn thương thần kinh quay: Hà thủ ô 30g, sắc, chia uống sáng và chiều, liệu trình 1 tháng. Theo dõi 14 ca, tỷ lệ khỏi 86,7% (Truyền Bằng Liêu, ‘Báo Cáo 14 Ca Tổn Thương Thần Kinh Quay Trị Bằng Hà Thủ Ô’, Trung Hoa Trung Y Cốt Thương Khoa Tạp Chí 1988, l: 34).
+ Trị can huyết bất túc, huyết áp hơi cao, đầu đau, chóng mặt, tay chân tê: Hà thủ ô (chế), Sinh địa, Huyền sâm, Bạch thược (sống), Nữ trinh tử, Hạn liên thảo, Sa uyển tặt lê, Hy thiêm thảo, Tang ký sinh, Hoài ngưu tất mỗi thứ 12g, Sắc uống (Hà Thủù Ô Tễ – Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Ngoài ra còn có báo cáo dùng Hà thủ ô trị mề đay, lở nhọt (Trung Dược Ứng Dụng Lâm Sàng). Trị nốt ruồi (Trung Dược Học), tinh trùng yếu (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Ngoài ra, theo báo cáo, chỉ dùng một vị Hà thủ ô sắc uống thường xuyên có thể trị chứng tinh loãng, tinh ít (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Kết bợp với Tang ký sinh, Nữ trinh tử trị chứng động mạch xơ cứng, huyết áp cao nơi người lớn tuổi (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Tham khảo:
+ Thủ ô trắng vào phần khí, Thủ ô đỏ vào phần huyết, thuốc khí ôn, vị đắng, sáp, đắng bổ thận, ôn bổ can, thu liễm tinh khí, dưỡng huyết ích can, cố tinh, ích thận, kiện cân cốt, làm đen râu tóc, là vị thuốc tư bổ tốt (Bản Thảo Cương Mục).
+ Hà thủ ô sống tính phát tán, trị sốt rét nóng lạnh, các chứng ung thư bối sang đều dùng được. Dùng tươi sắc uống có tác dụng thông tiện, tác dụng không khác Nhục thung dung (Bản Kinh Phùng Nguyên).
+ Hà thủ ô nhập vào can để ích huyết, khu phong, kiêm bổ thận… là thuốc tuấn bổ chân âm tiên thiên, thuốc cũng cần cho điều bổ dinh huyết của hậu thiên, thuốc dưỡng tinh thần, điều bổ nguyên khí (Bản Thảo Cầu Chân).
+ Hà thủ ô dùng trị sốt rét và lỵ lâu ngày… cái hay của Hà thủ ô là vào kinh thiếu dương, khí rất mạnh, mạnh nên triệt được ngược tà. Vị của thuốc rất sáp, sáp nên chặn được ngược tà, nếu bệnh chưa hết, cho thêm Sài, Linh, Quất, Bán. Nếu đã khỏi nên thêm Sâm, Truật, Kỳ, Quy, cho thêm 1, 2 thang (Thần Nông Bản Thảo Kinh Độc).
+ Hà thủ ô bổ âm mà không trệ, không hàn, cường dương mà không táo, không. nhiệt. Bẩm thụ khí xung hòa, được khí thuần túy của trời đất. Ngày xưa có một ông gìa họ Hà thấy cái dây ban đêm quấn lại với nhau, ông đào lấy củ để uống, râu tóc xanh trở lại hết, cho nên gọi là Thủ ô, sau đó ông ấy rất cường dương, sinh nhiều con trai, đổi tên là ‘Năng tự’, từ đó ta biết được tính bổ âm mà bổ ích cho tạng thận của Thủ ô. Thục địa và Thủ ô đều là ‘ thuốc bổ âm, nhưng Thục địa bẩm thụ khí của giữa mùa đông để sinh ra, nấu và phơi cho tới màu đen thì chuyên vào thận mà tư nhuận cho chân thủy của ‘Thiên nhất’ sinh ra, lại bổ cả Can là vì tư nhuận cho thận mà liên cập tới, Thủ ô bẩm thụ khí mùa xuân để sinh, lại do phong mộc hóa ra, thông với Can, là dương ở trong âm được cho nên chuyên đi về kinh Can mà có tác dụng ích huyết, trừ phong, bổ can thận, cũng nhân vì bổ Can mà tác dụng đến. Một bên là thuốc bổ mạnh cho chân âm tiên thiên cho nên có công năng cứu ngay được bệnh nguy do cô dương lấn lên dữ quá. Một bên thì cần dùng để bổ cho vinh huyết hậu thiên, là thuốc uống thường để nuôi khỏe tinh thần, trừ bệnh tật, điều nguyên khí. Chân âm của tiên thiên và hậu thiên không giống nhau, thì công hiệu cũng có hoặc chậm hoặc nhanh, hoặc nhẹ hoặc nặng rất khác nhau. Huống nữa, gọi tên là ‘Dạ hợp’, và ‘Năng tự” thì trong bổ huyết lại có cả bổ dương, không phải như Địa hoàng công năng chỉ chuyên về tư nhuận cho thủy, khí bạc mà vị hậu, là vị thuốc trọng trọc ở trong loại thuốc trọng trọc, có tác dụng cứng mạnh gân xương mà thôi. Đó là ý kiến tâm đắc của tiên sư Phùng thị mà người xưa chưa từng phân tích, ngườỉ bây giờ dùng chung để bổ âm thì chẳng bền lắm hay sao? (Dược Phẩm Vậng Yếu).
+ Hà thủ ô dùng lâu ngày khiến người ta có con, trị tất cả các chứng ở bụng đã bệnh lâu ngày, chứng lãnh khí trường phong (tiêu ra máu) (Đại Minh Nhật Hoa Chư Gia Bản Thảo).
+ Hà thủ ô có tác dụng tả can phong (Thang Dịch Bản Thảo).
+ Hà thủ ô sách ghi là vốn vị đắng, chát, hơi ấm, đồn rằng vị ngọt khí ấm, vào kinh Túc quyết âm kiêm vào kinh Túc thiếu âm nên là thuốc thượng phẩm để bổ huyết, khu phong. Có 2 loại thư (cái) và hùng (đực), qua đêm thì giao với nhau, có hiện tượng âm dương giao hợp, nên làm cho người ta có con, mà can chủ huyết, thận chú tàng tinh, bổ 2 kinh này thì tinh huyết thịnh vượng. Tóc là chất thừa của huyết nên nó làm đen tóc, nó chủ trị về chứng loa lịch (tràng nhạc), khi can đởm uất kết thì sinh nội nhiệt, dinh khí ủng tắt ngược ở trong, bèn phát ra bệnh. Mười một tạng phủ đều quyết đinh bởi nội đờm, can và đởm là biểu lý với nhau, là kinh thuộc Thiếu dương. Không thể ra vào, khí huyết đều ít, là sở chủ của phong mộc, hành đởm khí, bổ can huyết thì chứng loa lich tự tiêu mất vậy. Điều hòa dinh khí thì tiêu dược nbọt sưng. Trị phong tiên tri huyết, huyết hoạt thì phong tán, nên chữa được nhọt phong ở đầu mặt. Chứng trường tích gây ra trĩ, trĩ là do thấp nhiệt rót xuống dưới làm tổn thương phần huyết mà không thể tiết ra được, thì dồn về hậu môn, làm cho phần cơ nhục tại chỗ lồi ra thành các dạng, phong thì thắng thấp, thấp nhiệt giải được thì nhọt trĩ tự bằng ph’ẳg trở lại. Tâm huyết hư thì nội nhiệt, nhiệt từ tâm dao (lay động), dao động thì gây đau, bổ khí huyết thì nhiệt giải được, nhiệt đã giải thì trừ đau được. Bổ khí huyết thì tóc đen, sắc mặt tươi đẹp, dùng lâu ngày thì bổ gân cốt, ích tinh khí, sống lâu mà không gìa đều bởi công bổ can thận, ích tinh huyết. Cũng trị chứng đàn bà sản hậu và các chứng đới hạ, phụ nữ lấy huyết làm chủ, kinh nguyệt thông suốt là bởi Quyết âm, đới hạ vốn bởi huyết hư mà kiêm thấp nhiệt, hành thấp, ích huyết thì ắt trừ bệnh được (Bản Thảo Kinh Sơ).
+ Hà thủ ô các sách đều cho rằng Hà thủ ô có tác dụng tư thận, bổ thủy, đen tóc, nhẹ người, rất được khen thưởng, công hiệu gần giống như Địa hoàng. Chỉ với hiện tượng mà biện luận rất rõ ràng rằng Thủ ô vị đắng, chát, tính hơi ấm, về âm phận thì không nê trệ lắm, về dương phận thì không táo lắm, được bẩm khí trung hòa của trời đất. Thục đia, Thủ ô dù đều bổ âm, một thứ là thuốc bổ chân âm của tiên thiên, nên công của nó cứu được cái nguy của cô dương bùng lên, một thứ cần điều bổ dinh huyết của hậu thiên, uống lâu dài là thuốc bổ dưỡùng tinh thần, hết bệnh, điều hòa nguyên khí. Âm của tiên thiên và hậu thiên khác nhau, nặng nhẹ hoãn cấp về công hiệu cũng khác nhau rất nhiều, huống chi gọi là Dạ hợp, lại tên là Năng tự, thì trong bổ huyết, còn có sức hóa dương, không như công của Đia hoàng chuyên tư thủy, khí bạc vị hậu, là chất trọc trong trọc. Tác dụng về mạnh xương bổ tủy chăng, cách nói này rất thất thiệt, tiên hiền chưa có phong cho nó tác dụng này, không nên bỏ qua. Lấy củ lớn như nắm tay 5 cánh là tốt, loại đã 300 năm thì lớn như cây gậy, dùng nó rồi sẽ thọ như thần đất, có 2 loại: đỏ thuộc đực, trắng thuộc cái, hễ dùng nên lấy l/2 trắng l/2 đỏ, ngâm với nước vo gạo, cạo vỏ và thái phiến bằng lưỡi dao tre, dùng đậu Đen trộn dều với Hà thủ ô, cho vào nồi đất, cửu chưng củu sái, với Phục linh làm sứ. Kỵ thịt heo, cá không vẩy, củ cải trắng, hành, tỏi, đồ sắt (Bản Thảo Cầu Chân).
+ Rễ của Thủ ô, đâm vào đất rất sâu, mà dây bò dài, rất nhiều lại xa, về đêm lại giao nhau, gồm có khí cực âm, có khả năng làm đông đặc, cho nên chuyên vào Can Thận, có tác dụng bổ dương, bổ chân âm, mùi vị của nó rất đặc, hơi kiêm vị đắng chát, tính ôn hòa, phù hợp vói lý cất dấu nơi hạ t iệu, nên nó có tác dụng điều bổ tinh khí, bình hòa âm dương, không như Địa hoàng chỉ thiên về âm ngưng. Theo ông Lý trong tập ‘Hà Thủ Ô Chuyện Kể’ thì bắt đầu thời nhà Đường mới biết dùng nó, có 2 loại đỏ và trắng, bèn cho rằng có sự phân biệt vào khí và vào huyết, người dùng đã sử dụng cả 2, cũng có nghĩa là phối hợp cả âm và dương, cả hai được điều chí lý về quân bình. Sách ‘Khai Bảo Bản Thảo’ ghi rằng Hà thủ ô có tác dụng điều trị loa lịch, tiêu nhọt sưng, chữa nhọt phong nơi dầu mặt, vì rễ của nó vào sâu trong đất, dây nó lại bò xa, nên có hiệu quả tuyên thông kinh lạc, hơn nữa, loại đỏ vào thẳng huyết phận. Sách ‘Tần Hồ Cương Mục’ ghi rằng, trong ngoại khoa gọi là cây Sang tảo (chổí quét nhọt) và Hồng nội tiêu (tiêu đỏ bên trong). Trong sách ‘Đấu Môn Phương’ cũng có ghi rằng Hà thủ ô chuyên trị chứng loa lịch, kết hạch, lại viết rằng rễ nó như quả trứng gà, cũng gần như chứng Lịch tử (?) e rằng không khỏi quá phô trương. Trong sách ‘Khai Bảo Bản Thảo’ ghii chữa ngũ trĩ, giảm tâm thống, ích khí huyết, đen râu tóc, cũng chữa chứng sản hậu và đới hạ của phụ nữ, đều lấy nghĩa dưỡng âm, bổ huyết, vô cùng thâm ý. Trong sách ‘Đại Minh’ ghi rằng, chữa tất cả các chứng bệnh lâu ngày do khí lạnh của các tạng phủ trong bụng, lại chẳng qua ôn nhuận để bổ ích ngũ tạng vậy. Ông Vương Hiếu Cổ cho rằng tả can phong, là do âm không hàm dưỡng được dương, thủy không dưỡng mộc, thì trị phong tiên trị huyết, huyết hành phong tự diệt, cũng là điều thích nghi của nó, nhưng đó là tư bổ để diệt phong (trừ phong), ắt không nên hiểu lầm là tả can. Người đời Kim, Nguyên nói về y thường dùng thuốc với những lời luận rất là sằng bậy. Sách của Đơn Khê, Đông Viên, cũng thường hay nhắc đến trong sách của Vương Hải Tàng. Đời Minh, Thiệu Ứng Tiết có phương ‘Thất Bảo Mỹ Nhiệm Đơn (Y Học Nhất Đắc).
+ Thân và lá của Hà thủ ô gọi là ‘Hà thủ ô hành diệp’ hoặc ‘Dạ giao đằng’. Theo Đẩu môn, ngày xưa vua Hán Vũ Đế có thứ đá gọi là Mã can thạch chữa cho người tóc trắng hóa ra đen, nên đặt tên cho Hà thủ ô là ‘Mã can thạch’, Hà thủ ô làm tiêu tan được chứng sưng độc nên sách Ngoại khoa gọi nó là ‘Sang chửu’ hay Hồng nội tiêu. Theo Lý Thời Trân, Hà thủ ô mà gốc nào kiếm được như chữ ‘cửu’ nên gọi nó là ‘Cửu chân đằng’ (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Hà thủ ô vị đắng, ngọt, tính ấm, kèm có vị chát, có công năng bổ ích âm cho can thận lại có lác dụng dưỡng huyết, liễm tinh, vì thế mà có thể tri bệnh di tinh, làm đen râu tóc, công hiệu của nó tương tự như Thục địa. Lý Thời Trân cho rằng Hà thủ ô “Không hàn không táo, công hiệu hơn cả Địa hoàng, Thiên môn đông”, có thể biết được rằng nó có công hiệu bổ huyết dưỡng âm rất tốt. Nhưng khi dùng phải qua khâu chế biến mới hay được, nếu dùng sống thì sở trường có thể hoạt trường, có thể kết hợp nó với Chỉ thực, Nguyên minh phấn để dùng trong bệnh thấp, ôn tà nhập lý, chứng lý kết, đại tiện không thông (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Hà thủ ô tươi gọi là Tiên Hà thủ ô, có công hiệu nhuận táo, thông tiện, có thể thay thể cho Nhục thung dung để tri huyết dịch, tân dịch bị khô táo, đại trường bí kết, tràng nhạc, sốt rét lâu ngày (Trung Dược Học Giảng Nghĩa).
+ Trường hợp bổ ích tinh huyết dùng Chế thủ ô để giải độc, nhuận trường, Trị sốt rét dùng Sinh thủ ô, tác dụng giải độc và nhuận tràng của Thủ ô tươi càng mạnh hơn Sinh thủ ô (Trung Dược Học).
+ Chế Thủ ô so với Thục địa: Thủ ô thiên về bổ can hư, Thục địa thiên về bổ thận hư. Thủ ô bố nhưng không nê trệ như Thục địa. Theo kinh nghiệm lâm sàng thì nếu là tâm huyết kém, não huyết kém dùng Thủ ô tốt nếu là khí huyết suy nhược, tuần hoàn ngoại vi kém, chân tay lạnh thì dùng Thục địa tốt hơn (Trung Dược Học).
+ Không nên dùng chung với các loại thuộc loại khoáng chất như Tử thạch, Đại giá thạch, không nấu trong các dụng cụ bằng sắt (Trung Dược Học).
Phân biệt:
+ Cần phân biệt với Hà thủ ô trắng, còn gọi là Hà thủ ô trắng, dây Sữa bò. Rễ để nguyên hoặc cắt phiến. Rễ nguyên hình trụ tròn dài khoảng 10cm. Loại xắt phiến, có phiến mỏng (lẫn với một số mẫu thân) dày khoảng 0,5 – 1cm (có khi tới 2cm) đường kính khoảng 0,5 – 4cm. Vỏ ngoài màu nâu xám có nếp nhăn dọc và lỗ bì nằm ngang, đôi khi còn vết tích của rễ con hoặc đoạn rễ con còn sót lại. Mặt cắt ngang có mô mềm, vỏ mỏng, nhiều bột, libe màu trắng ngà, tầng phát sinh trong mảnh màu nâu, phần gỗ chiếm nửa tiết diện, không mùi, vị đắng.
+ Cân phân biệt với cây Châu sa thất (Polygonum m ultinorum Thunb. var. cillinerve (Nakai) Steward.).
Đó là cây thảo dây leo sống lâu năm, dài hơn 1 mét. Thân phình lớn thành củ. Rễ khối biểu hiện hình trứng, mặt ngoài màu nâu, có nhiều rễ nhỏ, mặt cắt ngang có màu vàng hồng, khi tươi có màu đỏ như Chu sa (vì vậy mà có tên là Chu sa thất). Khi khô thì biến thành màu vàng. Thân nhỏ mà dài gần như thẳng đứng giữa không trung, màu lục tím, phân nhánh ít. Lá mọc cách, có cuống dài, hình trứng dài, dài 4 – 9cm. Hoa tự hình viên chùy sinh ở ngọn hoặc ở nách, hoa màu trắng.

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

Để phòng chống béo phì, có thể ăn củ và rau  lang luộc. Áp dụng chế độ nửa gạo, nửa khoai riêng rẽ, hoặc độn chung với nhau nấu thành cơm, cháo, bánh…


Lá khoai lang là loại rau dân dã vừa ngon, vừa mát và bổ. Củ và rau khoai lang là vị thuốc phòng chữa bệnh đã được dùng từ lâu trong dân gian, có nơi gọi nó là “sâm nam”.
Theo Đông y, khoai lang có nhiều tên như: cam thử, phiên chử. Củ khoai lang tính bình, vị ngọt, có tác dụng bồi bổ cơ thể, ích khí, cường thận, kiện vị, tiêu viêm, thanh can, lợi mật, sáng mắt. Nó được dùng chữa vàng da, ung nhọt, viêm tuyến vú, phụ nữ kinh nguyệt không đều (dùng trước kỳ kinh), nam giới di tinh, trẻ em cam tích, lỵ.
Rau lang tính bình, vị ngọt, không độc, bổ hư tổn, ích khí lực, kiện tỳ vị, bổ thận âm, dùng chữa tỳ hư, kém ăn, thận âm bất túc. Kiêng kỵ với các trường hợp tiêu chảy, viêm dạ dày đa toan, đường huyết thấp. Khoai lang vàng đỏ có nhiều vi chất hơn khoai lang trắng.
Một số điểm lưu ý khi dùng khoai lang:
- Để có tác dụng bổ dưỡng, nên ăn khoai vỏ đỏ ruột vàng. Để giải cảm và chữa táo bón, phải dùng khoai vỏ trắng ruột trắng.
- Không ăn thường xuyên rau lang vì nó chứa nhiều canxi, có thể gây sỏi thận.
- Nên ăn kèm đạm động vật, thực vật để cân bằng thành phần dưỡng chất.
- Trong khoai lang có chất đường, nếu ăn nhiều, nhất là khi đói sẽ gây tăng tiết dịch vị làm nóng ruột, ợ chua, sinh hơi trướng bụng. Để tránh tình trạng này, khoai phải được nấu, luộc, nướng thật chín hoặc cho thêm ít rượu vào nấu để phá hủy chất men. Nếu bị đầy bụng, có thể uống nước gừng để chữa.
- Vỏ khoai lang chứa nhiều vitamin và khoáng chất. Do đó phải bảo vệ phần vỏ không bị sây sát, không gọt vỏ nếu không cần thiết. Vỏ còn giúp bảo vệ dưỡng chất bên trong, vì vậy khi luộc khoai nên để cả vỏ (đã rửa sạch).
- Bảo quản khoai ở nơi sạch sẽ, khô ráo, thoáng mát, không có chuột bọ và chỉ nên dùng trong vòng một tuần.
- Phải bỏ hết khoai hà (sùng), khoai đã có mầm và vỏ xanh chứa chất độc.
- Khi luộc rau lang để ăn và chữa bệnh, nên lấy nước thứ hai vì nước thứ nhất thường chát và hăng.
Món ăn bài thuốc từ khoai lang
Chữa cảm sốt mùa nóng: Thời tiết nóng dễ gây sốt vì cảm, không ra được mồ hôi. Với người sức khỏe tốt, có thể nấu khoai lang trắng với cải bẹ xanh ăn thay cơm để giúp ra mồ hôi, hạ sốt, giải cảm. Có thể dùng các bài thuốc:
- Khoai lang trắng khô một nắm, nghệ một củ, giấm 1/2 chén con, sắc uống nóng.
- Khoai lang trắng khô 16 g, gừng 16 g, sắc uống hoặc nấu cháo.
- Khoai lang trắng tươi luộc chín để xông, rồi ăn khoai nóng, uống nước luộc khoai nóng cho ra mồ hôi.
- Khoai lang 1 củ (400 g), gạo 200 g, đậu xanh 1/2 bát cơm, mã thầy 4 củ, củ cải 1 củ, tỏi 3 nhánh, thịt gà 150 g, tôm nõn 70 g, gia vị. Tất cả giã nát hoặc thái nhỏ nấu nhừ, riêng đậu xanh và mã thầy cho vào sau rồi nấu nhừ tiếp.
Chữa táo bón: Ăn khoai luộc đơn thuần hoặc chấm mật, chấm vừng; ăn với cà pháo cả quả hoặc thái chỉ cà, nghiền cùng khoai thành khối. Các cách khác:
- Uống nước luộc khoai (khoai phải rửa sạch).
- Nấu chè khoai tươi hoặc khô với vừng và ít hoa quế.
- Dùng nước cốt luộc khoai tươi hay khô đã giã nát, nếu bị trĩ thì uống hàng tháng nước cất này vào buổi sáng.
- Ăn bánh làm bằng khoai lang với vừng hoặc dừa. Khoai lang tươi xào dầu vừng. Canh rau lang. Rau lang luộc chấm nước mắm gừng tỏi hoặc nước sốt cà chua, chấm vừng lạc (giã nhỏ). Nên làm sẵn bột khoai khô với vừng tán mịn, quấy uống mỗi sáng với nước đường.
Trẻ biếng ăn: Cho ăn dặm bằng bột khoai lang vàng đỏ quấy với bột, sữa.
Quáng gà: Lá khoai lang non xào gan gà hoặc gan lợn.
Thiếu sữa: Lá khoai lang tươi non 250 g, thịt lợn 200 g thái chỉ. Xào chín mềm, thêm gia vị.
Viêm tuyến vú: Khoai lang trắng gọt vỏ, giã nhuyễn đắp lên vú, có thể phối hợp với tỏi giã nhuyễn để đắp.
Thận âm hư, đau lưng mỏi gối: Lá khoai lang tươi non 30 g, mai rùa 30 g, sắc kỹ lấy nước uống.
Thận dương hư, đi tiểu nhiều lần: Hầm thịt chó với khoai lang, cho thêm chút rượu và gia vị.
Chữa ngộ độc sắn: Khoai lang gọt vỏ giã nát thêm nước, vắt lấy nước cốt. Uống cách nhau 1/2 giờ.
Say tàu xe: Củ khoai lang tươi nhai nuốt cả nước và bã.
Phụ nữ băng huyết: Rau lang tươi một nắm giã nát, lấy nước cốt uống.
Vàng da: Nấu cháo đặc bằng khoai với gạo hoặc bột ngô.
Mụt nhọt: Khoai lang củ 40 g, lá bồ công anh 40 g, đường hoặc mật mía giã nhuyễn bọc vào vải, đắp lên mụn nhọt. Để hút mủ nhọt đã vỡ, lấy lá khoai lang non 50 g, đậu xanh 12 g, thêm chút muối, giã nhuyễn bọc vào vải đắp.

Mè đen còn gọi là hồ ma, du tử miêu, vừng đen, tên khoa học là Sesamum indicum L., thuộc họ vừng (Pedaliaceae). Mè đen là loài cây thân thảo có hình 4 cạnh với những tiết diện vuông và những rãnh dọc hoặc có dạng thân rất rỗng hình chữ nhật hay hình tròn cao từ 60-120 cm. Mè đen được trồng khắp nơi để lấy hạt là loại nằm trong nhóm thực phẩm nhiều dinh dưỡng, đồng thời còn là vị thuốc quý.


Theo đông y, mè đen vị ngọt, tính bình, tác dụng dưỡng huyết, nhuận táo, bổ ngũ tạng, hư nhược, ích khí lực, bền gân cốt, sáng mắt, thêm thông minh, dùng ngoài đắp trị sưng tấy, vết bỏng và làm cao dán nhọt. Mè đen còn giúp bổ gan thận, bồi bổ tinh dịch, dưỡng huyết ích khí, làm đen tóc, mịn da, mạnh gân cốt, bổ hư, dưỡng ngũ tạng, thính tai, sáng mắt, rất tốt cho người thiếu máu, tóc bạc sớm, đặc biệt là rất bổ cho người già, sản phụ thiếu sữa. Lá mè có vị ngọt, tính lạnh, có tác dụng ích khí, bổ não tủy, mạnh gân cốt, khỏi tê thấp. Nấu lá vừng làm nước gội đầu thường xuyên giúp tóc có màu đen mượt. Nếu giã lá vừng tươi vắt lấy nước cốt uống chữa được bệnh rong huyết.
Theo các thầy thuốc, dầu mè bôi lên niêm mạc có tác dụng giảm kích thích, chống viêm. Ăn dầu mè làm giảm lượng cholesterol trong máu, phòng trị xơ cứng động mạch, phòng ngừa cao huyết áp ở người lớn tuổi. Dầu mè đen giúp nhuận tràng, thông đại tiện, chữa táo bón, nhất là ở người già. Phòng chống suy dinh dưỡng cho người già yếu suy nhược, trẻ em suy dinh dưỡng. Bổ khí huyết, làm mịn da, đen tóc giúp trẻ lâu nhờ chứa nhiều sắt và vitamin E, PP.

Bí ngô là loại cây dễ trồng, phổ biến trên thế giới. Thịt quả bí ngô có vị ngọt, mát, nhuận tràng, rất tốt để làm thực phẩm mùa hè. Bí ngô cũng rất tốt cho thận, giải nhiệt, giải độc cho gan, vì vậy nó cũng có chức năng ngừa cảm nắng hay những người bị say nắng.


Theo các nhà khoa học, trong quả bí ngô có nhiều chất chống ôxy hoá, chống viêm nhiễm cho cơ thể, giúp da nhanh liền sẹo, làm giảm các nguy cơ mắc bệnh về da: Vẩy nến, chàm.
Bí ngô cũng là thực phẩm không thể thiếu cho bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường, tim mạch, áp huyết, chất peptit trong bí ngô có tác dụng dung hoà làm giảm lượng cholesterol trong máu, sản sinh các insulin bị tổn thương, cải thiện insulin trong máu. Sử dụng bí ngô thường xuyên cung cấp cho cơ thể một lượng lớn các chất sắt, kẽm, giúp đẩy nhanh quá trình tạo máu và các huyết cầu tố, phòng ngừa thiếu máu và xơ vữa động mạch. Mùa nóng, có thể ăn sống hoặc chế biến thành các món xào, nấu, nấu chè từ thịt quả bí ngô.
Hạt bí ngô có tên khoa học là Semen cucurbitae Moschatae. Đây là loại hạt rất phổ biến ở Việt Nam thường được sấy khô có nhiều chất dinh dưỡng. Trong hạt bí ngô có chứa nhiều magie. Theo một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Pháp, nam giới có lượng magie cao trong máu thì giảm được 40% nguy cơ chết chóc so với những người có lượng magie thấp. Một người đàn ông trung bình nên tiêu thụ 353 mg khoáng chất này hàng ngày, nhưng cao nhất cũng chỉ ở mức dưới 420 mg. Chúng ta có thể ăn cả vỏ hạt bí ngô, vì vỏ hạt có nhiều chất xơ. Nếu đem rang khô thì lượng magie trong hạt còn tồn tại ở mức 150 mg/1ounce.
Trong sách thuốc phương Đông thì hạt bí ngô có tên là Nam qua tử, Nam qua nhân, dùng làm thuốc, được ghi đầu tiên trong Bản thảo cương mục thập di. Hạt có vị ngọt tinh binh, qui kim vị đại tràng, vị ngọt tính ôn.
Kết quả nghiên cứu y học hiện đại cho thấy, nước sắc và nhân hạt bí ngô khi uống có tác dụng tẩy giun đũa, làm tê liệt sán dây ở bò và heo, phối hợp với hạt cau thì đem lại hiệu quả cao. Đối với phụ nữ sau khi sinh mà mất sữa có thể khắc phục bằng cách mỗi lần uống hạt bí ngô từ 15-20g.
Chế biến bằng cách: Bỏ vỏ, giã nát, hòa nước uống khi đói bụng, ngày uống hai lần sáng và tối. Uống liền 3-5 ngày thì có kết quả. Canh thịt quả bí ngô có tác dụng trị nhức đầu. Cuống quả bí ngô tán nhỏ, mỗi lần uống từ 1-2g có tác dụng gây nôn, trị đờm, giải độc thịt cá.
Tại nhiều quốc gia châu Âu nơi mà tỷ lệ người dân bị béo phì, áp huyết, tim mạch tăng đột biến thì nhiều người thường sử dụng hạt bí ngô trong khẩu phần ăn của mình để ngừa bệnh phì đại tuyến tiền liệt , xơ vữa động mạch, cho thấy rất hiệu quả. Có điều đặc biệt là trong hạt bí ngô có chất đặc hiệu delta 7 – phytosterol mà các loại dầu thực vật khác như đậu nành, ô liu, hướng dương không bao giờ có, chất này có tác dụng ngừa bệnh xơ vữa động mạch vành rất tốt.
Tại nhiều quốc gia châu Âu và châu Mỹ, hạt bí ngô còn được chế biến thành các viên nang dinh dưỡng mềm Peponen dùng cho các chế độ ăn chữa các bệnh rối loạn tiểu tiện ở cả nam và nữ, phòng ngừa rối loạn mỡ trong máu ở người lớn tuổi.

Hoa nhài còn gọi là hoa lài, nhài đơn, mạt lợi, tên khoa học của cây nhài là Jasminum Sambac Ait, thuộc họ nhài (Oleaceae). Cây nhài có nguồn gốc từ Ấn Độ. Hiện nhài được trồng khắp nơi để dùng hoa ướp chè.


Hoa nhài là loại cây thân gỗ, thường mọc thành bụi, lá bóng cả hai mặt, phiến lá hình bầu dục hơi trái xoan, mọc đối. Hoa sắc trắng, mọc thành cụm ở nách lá hay ngọn cây, có mùi thơm, hoa hay nở vào ban đêm, cũng có khi nở rộ vào giữa trưa. Quả màu đen hình cầu quanh có đài phủ lên, quả gồm 2 ngăn. Hoa nhài được trồng làm cảnh ở khắp nước ta. Ngoài công dụng để ướp trà, hoa nhài còn là vị thuốc chữa một số bệnh thông thường.
Bộ phận sử dụng làm thuốc là hoa và rễ. Trong hoa nhài chứa chất béo thơm khoảng chừng 0,08%. Rễ tuy độc nhưng được dùng làm thuốc giảm đau.
Đông y cho rằng, hoa nhài có tính bình, hơi hàn, vị đắng có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi thấp, tiêu thũng, hoạt huyết… dùng chữa viêm màng khóe mắt, hay màng mộng, đặc biệt chữa bệnh mất ngủ, tăng huyết áp, tiêu chảy, hoa mắt, chóng mặt… Liều dùng trung bình từ 2 – 4g loại hoa khô. Ngoài ra người ta còn chiết lấy tinh dầu hoa nhài làm hương liệu trong công nghệ mỹ phẩm.
Để tham khảo và áp dụng, dưới đây là những phương thuốc chữa trị bệnh tiêu biểu từ hoa nhài.
Chữa mất ngủ: Hoa nhài 6g, tâm sen 8g. Hoa nhài và tâm sen hãm với nước sôi uống nhiều lần trong ngày. Uống liên tục từ 7 – 10 ngày sẽ thấy kết quả rõ rệt. Hoặc hoa nhài 10g, bồ công anh 20g, kim ngân hoa 20g, cam thảo đất 10g, sắc uống ngày 1 thang chia 2 – 3 lần. Uống liên tục trong 7 ngày.
Chữa tăng huyết áp: Hoa nhài 10g, hoa hòe 10g, kim cúc 6g, hoa đại 6g. Sắc với ba bát nước còn một bát, chia uống hai lần trong ngày. Uống vào buổi sáng và tối sau bữa ăn. Mỗi liệu trình uống 10 ngày.
Trị bệnh tiêu chảy: Hoa nhài 6g, chè xanh 10g, thảo quả 3g, vỏ dộp ổi 3g. Cách dùng: 4 thứ trên đem sắc với 600ml nước còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày, uống sau các bữa ăn. Uống liên tục trong 3 ngày. Hoặc hoa nhài 10g, vỏ quả lựu 10g, cam thảo đất 16g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2- 3 lần. Uống trong 4 ngày.
Chữa chứng hay nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt: Hoa nhài và hoa cúc vàng, mỗi vị 6g. Cả hai rửa sạch, để ráo đem hãm với nước sôi, uống thay nước chè hàng ngày.
Nhức mỏi, đau đầu gối: Hoa nhài 50g, móng giò lợn 200g. Cách nấu: Móng giò lợn rửa sạch, chặt khúc, ướp gia vị. Hoa nhài đã rửa sạch để ráo. Cho 3 bát nước đun sôi móng giò khoảng 30 phút, cho hoa nhài vào, nêm gia vị vừa đủ bắc ra ngay. Ăn khi canh còn nóng, có thể dùng làm canh ăn với cơm. Mỗi tuần nên ăn khoảng 3-5 lần. Đơn thuốc này dễ làm nhưng lại hiệu quả cho người hay nhức mỏi, đau đầu gối.
Giúp thanh nhiệt mùa hè, tăng cường sức đề kháng: Hoa nhài khô 6g sắc uống thay nước hàng ngày. Hoặc dùng trà hoa nhài: Hoa nhài khô 1 thìa, cho hoa nhài vào bình trà, rót 300ml nước sôi để hãm, 5 phút sau trà có mùi thơm có thể uống luôn, người thích ngọt thì cho thêm mật ong hòa đều để nguội uống. Phương thuốc này có công dụng thanh thuần tỉnh não, khai khiếu giải phiền.
Chữa đi tiểu nhiều: Hoa nhài 5g, ngân hạnh 3g, sắc với 3 bát nước trong 1 giờ. Ngày uống hai lần, uống trong 7 ngày.
Chữa ho suyễn: Hoa nhài 3g, đậu phụ 100g hãm vào nước sôi uống trị được phế ung, ho suyễn, ngực đầy khí suyễn, hô hấp không thuận. Uống

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

Cây bầu tên khoa học là Lagenaria siceraria (Molina) Standl, thuộc họ bầu bí (Cururbitaceae). Là loại cây dây leo thân thảo, được trồng ở khắp nước ta, cây có tua cuốn phân nhánh và phủ nhiều lông mềm màu trắng. Quả bầu không chỉ là món ăn bổ mát còn được dùng làm thuốc.


Thành phần hoá học: Quả tươi chứa 95% nước; 0,5% protit; 2,9% glucit; 1% xenlulo; 2,1% canxi; 2,5% phosphor; 0,2mg% sắt và các vitamin; caroten 0,02mg%; vitamin B1 0,02mg%; vitamin B2 0,03mg%; vitamin PP 0,40mg% và vitamin C 12mg%. Trong quả còn có saponin. Quả bầu là nguồn cung cấp rất tốt vitamin B và vitamin C. Nhân hạt già chứa tới 45% dầu béo.
Theo Đông y, bầu vị hơi nhạt, tính mát, có công hiệu giải nhiệt, giải độc, lợi tiểu, nhuận phổi, trừ ngứa; chủ trị các chứng như trướng bụng, phù thũng, tiểu tiện ít, phổi nóng, ho…Cụ thể là thịt quả bầu vị ngọt, tính hàn, có tác dụng giải nhiệt, trừ độc, được dùng trị chứng đái rắt, phù nề, đái tháo, mụn lở…Vỏ bầu vị ngọt, tính bình, lợi tiểu, tiêu thũng nên cũng được dùng cho các chứng bệnh phù thũng, bụng trướng.
Hạt bầu đun lấy nước súc miệng chữa bệnh sưng mộng răng lợi, răng lung lay, tụt lợi. Lá bầu có vị ngọt, tính bình có thể làm thức ăn chống đói. Tua cuốn và hoa bầu có tác dụng giải thải nhiệt độc, nấu tắm cho trẻ em phòng ngừa đậu, sởi, lở ngứa. Quả bầu già sắc lấy nước uống có tác dụng lợi tiểu.

Dưới đây xin giới thiệu bài thuốc chữa bệnh từ quả bầu:
* Chữa tiểu trường: Quả bầu 50 – 100g nấu thành canh ăn hằng ngày.
* Chữa ho do phổi nóng: Quả bầu 50g đun lấy nước uống thay trà trong ngày.
* Chữa viêm lợi: Hạt bầu 20g, ngưu tất 20g, nấu lấy nước ngậm và súc miệng ngày 3 – 4 lần.
* Chữa đái dắt: 50g quả bầu, 30g rau má, 20g cỏ rễ tranh, 10g râu ngô. Tất cả cho vào ấm sắc uống hàng ngày, mỗi ngày chia làm 3 lần. (Nếu không có râu ngô có thể thay bằng rau diếp cá hoặc bông mã đề).
* Thuốc chữa táo bón: 50g bầu, 50g khoai lang, 30g đường đỏ. Thuốc sắc uống trong ngày, chia làm 3 lần, uống liên tục trong 5 ngày. Bệnh sẽ đỡ nhiều.
* Trị bí tiểu tiện: 200g bầu, 5 củ hành củ (dùng cả lá lẫn rễ). Hai vị trên sắc cùng nhau, uống trong ngày. Uống làm 3 lần mỗi lần khoảng 60ml.

Cây hoa dẻ

Cây hoa dẻ còn gọi với tên khác là nồi côi, tên khoa học là Platanthera yosemitensis, thuộc họ Na (Annonaceae). Là loại cây mọc hoang trên các đồi cây ven rừng hoặc được trồng làm giàn leo cây cảnh ở các biệt thự.



Hoa dẻ luôn thấy xuất hiện trong đĩa hoa cúng trên bàn thờ tổ tiên vào ngày rằm, mồng một, lễ tết. Hoa dẻ là loài hoa dại có năm cánh hoa vàng ươm như ánh trăng mùa thu. Hoa dẻ thơm nồng nàn hơn cả hoa bưởi, hoa cau. Thường thấy loài hoa dại này sống ở ven rừng.
Nhiều bộ phận của cây dẻ được dùng làm thuốc trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian. Bộ phận sử dụng để làm thuốc là cả cây (thu hái quanh năm, chặt nhỏ, phơi khô, dùng riêng hoặc phối hợp với cây khác), hoa và rễ.
Theo kinh nghiệm của đồng bào dân tộc Dao ở tỉnh Tuyên Quang, bà con đã thu hái cây hoa dẻ quanh năm, chặt nhỏ, phơi khô, dùng riêng hoặc phối hợp với cây bòn bọt, nấu nước sắc để chữa bỏng và vết thương lở loét nên Học viện Quân y đã bào chế từ 2 dược liệu trên dạng cao lỏng lấy tên là cao SH-91, theo cách làm cụ thể sau:
Cả cây hoa dẻ và cành lá bòn bọt, mỗi thứ 5kg, chặt nhỏ, phơi khô cho vào nồi nhôm, đổ ngập nước 1 – 2 cm, nén nhẹ bằng 1 chiếc vít cho dược liệu không nổi lên, đun sôi trong 3 giờ, chắt lấy nước thứ nhất. Thêm nước, tiếp tục đun sôi trong 2 giờ, chắt lấy nước thứ hai. Gộp 2 nước sắc lại, cô nhỏ lửa thành cao. Cao có tỷ lệ 10/1 (10kg dược liệu thu được 1 lít cao) màu nâu nhạt, mùi thơm nhẹ. Đóng chai nút kín, đun tiệt trùng ở 110 độ C trong 1 giờ.
Khi dùng, chế cao thành thuốc mỡ gồm cao SH-91 10g, lanolin 10g, sáp ong 2g, vaselin vừa đủ 100g. Ngày bôi 3 – 4 lần. Thuốc không gây mẩn đỏ, ít phù nề, tạo màng che phủ tốt, liền sẹo nhanh. Thành phần có tác dụng của thuốc chính là tanin, chất làm săn se, cầm máu, ngừng xuất tiết, tạo màng che phủ và diệt khuẩn trên các vết bỏng nông và saponin là chất làm giảm sức căng bề mặt chất lỏng, có khả năng làm tan mủ diệt khuẩn ở các vết bỏng sâu, tạo điều kiện phát triển tổ chức hạt và biểu mô.
Đông y cho rằng, rễ cây hoa dẻ vị cay, tính hơi ấm, có tác dụng mạnh, tỳ vị, giảm đau, lợi thấp, chữa tê thấp, đau nhức gan xương, chân tay tê bại. Còn hoa dẻ tính bình, không độc, có tác dụng an thần, trấn tĩnh, chữa mất ngủ, ngủ không yên.
Dược liệu được thu hái quanh năm, như rễ thu hái, đem về rửa sạch, thái mỏng, phơi hay sấy khô cất dùng dần. Hoa dẻ được thu hái khi mới nở, đem phơi nắng nhẹ hoặc sấy lửa nhỏ để đảm bảo mùi thơm.
Dưới đây xin giới thiệu những cách trị bệnh từ cây hoa dẻ để tham khảo và áp dụng khi cần.
* Chữa tê thấp, đau nhức gân xương, chân tay tê bại (Dùng phương “Bách gia chân tàng” là phương thuốc của Hải Thượng Lãn Ông, rễ cây dẻ phối hợp với các vị thuốc khác): Rễ hoa dẻ, rễ rung rúc, rễ gắm, vỏ thân ngũ gia bì chân chim, rễ bướm bụng, mỗi vị 80g; rễ sấm nam, rễ cỏ xước, rễ ô dược, rễ bướu bạc, rễ tầm xuân, tầm gửi, cây dâu, rễ bạch đồng nữ, mỗi vị 40g; rễ chỉ thiên, cả cây roi ngựa, mỗi vị 20g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, ngâm với 2 lít rượu trắng trong 1 – 2 tháng, càng lâu càng tốt. Ngày uống 2 lần, mỗi lần một chén nhỏ.
* Chữa ngộ độc nấm, mẩn ngứa, mụn nhọt của Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu): Dùng rễ hoa dẻ phối hợp với kim ngân hoa, mỗi vị 30g, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống làm 2 lần trong ngày để chữa ngộ độc nấm, mẩn ngứa, mụn nhọt.
* An thần, trấn tĩnh, chữa mất ngủ, ngủ không yên: Dùng hoa dẻ thu hái khi mới nở, đem phơi nắng nhẹ hoặc sấy lửa nhỏ để giữ mùi thơm: Lấy 8 – 16g hoa đã khô, cắt nhỏ hãm với nước sôi, uống 1 lần trước khi đi ngủ. Ngày uống 2 – 3 lần.

Thứ Ba, 8 tháng 10, 2013

Đinh lăng có tên khoa học là Polyscias Fruticosa Harms thuộc họ Ngũ gia bì (Araliaceae), trong dân gian còn gọi là cây gỏi cá.

Đinh lăng thuộc loại cây nhỏ, cao 0,8-1,5m. Cây có lá kép, mọc so le, lá 3 lần xẻ lông chim, mép khía có răng cưa. Lá đinh lăng phơi khô, nấu lên có mùi thơm đặc trưng như mùi thuốc bắc. Ngoài dược tính quý ra, cây đinh lăng còn trồng làm cảnh. Lá đinh lăng còn nấu canh, lá non làm rau sống ăn rất thơm ngon.


Bộ phận dùng làm thuốc chủ yếu là rễ (lấy ở những cây trồng từ 3 năm trở lên). Người ta thường đào lấy rễ cây đinh lăng vào mùa thu hay mùa đông vì lúc này hoạt chất tập trung ở rễ. Rễ đào về đem rửa sạch đất cát, thái nhỏ rồi phơi, hay sấy khô. Cũng có thể tẩm thêm rượu, gừng và sao cho thơm. Ngoài rễ ra, người ta còn dùng cả thân và lá đinh lăng.
Theo các nhà dinh dưỡng, trong rễ đinh lăng có chứa nhiều saponin có tác dụng như nhân sâm, nhiều sinh tố B1, ngoài ra rễ còn chứa khoảng 13 loại axit amin cần thiết cho cơ thể, nhờ đó đinh lăng còn giúp tăng trí nhớ, giúp cho cơ thể có sức đề kháng tốt.
Theo Đông y, rễ đinh lăng có vị ngọt, hơi đắng, tính mát có tác dụng thông huyết mạch, bồi bổ khí huyết, lá có vị đắng, tính mát có tác dụng giải độc thức ăn, chống dị ứng, chữa ho ra máu, kiết lỵ. Nói chung, ngoài tác dụng lương huyết và giải độc thức ăn, những tính chất khác của đinh lăng gần giống như nhân sâm có chức năng chống mệt mỏi và làm tăng sức dẻo dai của cơ thể.
Liều dùng trung bình là 0,25- 0,50g một lần, ngày uống 2-3 lần, dùng dưới dạng thuốc bột (sao thơm, tán nhỏ, rây bột mịn), thuốc viên, hoặc ngâm rượu.
Dưới đây là một số bài thuốc có cây đinh lăng
-Ho suyễn lâu năm: Rễ đinh lăng, bách bộ, đậu săn, rễ cây dâu, nghệ vàng, rau tần dày lá tất cả đều 8g, củ xương bồ 6g; gừng khô 4g, đổ 600 ml sắc còn 250 ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống lúc thuốc còn nóng.
- Chữa nổi mề đay, mẩn ngứa do dị ứng: Lá đinh lăng khô 80g, đổ 500 ml nước sắc còn 250 ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày.
- Phong thấp, thấp khớp: Rễ đinh lăng 12g; cối xay, hà thủ ô, huyết rồng, cỏ rễ xước, thiên niên kiện tất cả 8g; vỏ quýt, quế chi 4g (quế chi bỏ vào sau cùng). Đổ 600 ml nước sắc còn 250 ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống khi thuốc còn nóng.
- Bồi bổ cơ thể, ngừa dị ứng: Lá đinh lăng tươi từ 150-200g, nấu sôi khoảng 200 ml nước. Cho tất cả lá đinh lăng vào nồi, đậy nắp lại, sau vài phút, mở nắp và đảo qua đảo lại vài lần. Sau 5- 7 phút, chắt ra để uống nước đầu tiên, đổ tiếp thêm khoảng 200 ml nước vào để nấu sôi lại nước thứ hai để uống.
- Chống bệnh co giật hoặc trằn trọc vào ban đêm cho trẻ mới sinh, người ta lấy lá đinh lăng phơi khô đem bỏ vào gối cho trẻ nằm.
- Chữa tắc tia sữa: Rễ đinh lăng 40g, gừng tươi 3 lát, đổ 500 ml nước sắc còn 250 ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống khi thuốc còn nóng.
Tuy nhiên, do thành phần saponin có nhiều trong rễ đinh lăng, chất này có tính phá huyết sẽ làm vỡ hồng cầu, vì vậy chỉ dùng khi cần thiết và phải dùng đúng liều lượng mới có tác dụng.

Không chỉ được dùng làm món gỏi, hay xào, ăn lẩu … ngó sen còn là một nguyên liệu để làm thuốc, giúp trị một số bệnh. Đông y cho rằng ngó sen khi tươi có tính hàn, ngọt mát, có thể tiêu ứ máu, thanh nhiệt, thích hợp với chứng khát khi say rượu, ho ra máu, nôn ra máu.


Chọn ngó sen
Ngó sen có hai loại, ngó sen nếp và ngó sen tẻ. Khi chọn mua ngó sen nếp, nên chọn thân trắng, non mịn, vỏ mỏng, đốt mắt nhỏ, phần bên trong sáng và nhẵn, đốt ngắn, ăn mềm. Không nên chọn ngó sen có thân màu xanh khô ráp, vỏ nhăn nheo héo úa.
Ngó sen tẻ, thân hơi có màu hồng, ráp, có những đường nhăn rõ, vỏ mỏng, đốt mắt to, gồ lên, phía trong có đường nhân, đốt dài, giống hình trụ dẹt, ăn hơi cứng, nhiều xơ và hơi dai.
Công dụng của ngó sen
Nước ngó sen tươi hoặc canh ngó sen có thể trị sốt nóng, khát và thổ huyết, tiểu ra máu, chảy máu mũi, xuất huyết dưới da, nhiệt năng trong cơ thể được bài tiết ra ngoài qua đường tiểu tiện…
Ngó sen, nhất là đốt ngó sen, là vị thuốc cầm máu rất tốt, chuyên trị các loại xuất huyết như thổ huyết, ho ra máu, tiểu ra máu, đại tiện ra máu… Dân gian thường dùng 6 – 7 đốt ngó sen giã nhỏ, cho vào ít đường đỏ uống, có hiệu quả cầm máu rất tốt.
Các bài thuốc đơn giản từ ngó sen:
Nước mía ngó sen:
Mía tươi 500gam, ngó sen tươi 500gam. Mía rửa sạch, róc vỏ, cắt vụn, ép lấy nước.
Ngó sen rửa sạch, bỏ đốt, thái vụn để vào bát to, đồ nước mía vào ngâm từ 8 – 10h, lấy ngó sen ra cho vào máy xay nhuyễn, ép lấy nước, ngày uống 3 lần.
Công dụng: chữa các chứng bệnh viêm đường tiết niệu, đái dắt, đái ra máu…
Cao nho ngó sen:
Nước nho 250ml, ngó sen tươi 250ml. Cho hỗn hợp gồm nước nho, ngó sen vào nồi, đun cho cạn thành cao. Chờ nguội cất trong lọ dùng dần. Uống mỗi lần hai thìa canh hòa đều với nước sôi, ngày hai lần.
Công dụng: lợi tiểu, chữa các chứng bệnh viêm đường tiết niệu, đái buốt thanh nhiệt.

Thứ Hai, 7 tháng 10, 2013

Cây chó đẻ trong việc trị nhiều bệnh như viêm gan, vàng da, lậu, lở loét, sỏi mật, cảm cúm, thống phong…

Có tên khoa học là Phyllanthus Urinaria L, họ thầu dầu Euphorbiaceae, cây này còn có tên là diệp hạ châu ngọt, cam kiềm, kiềm vườn, diệp hòe thái, lão nha châu, trân châu thảo… Dân gian gọi là cây chó đẻ vì chó sau khi đẻ thường tìm lá cây này về để nhai. Cây chó đẻ cao từ 30-60cm, thân nhẵn, mọc thẳng đứng, lá mọc so le, phiến lá thon nhỏ dài từ 5-15mm, rộng từ 2-5mm. Cây mọc hàng năm ở khu vực nhiệt đới, là loại cỏ mọc hoang có thể tìm thấy nhiều nơi khắp nước ta.



  • Đông y
  • Tây ỵ
  • Bài thuốc
Diệp hạ châu theo Y học cổ truyền
Theo Đông y, diệp hạ châu vị đắng, hơi ngọt, tính mát, có tác dụng thanh can lương huyết, lợi tiểu, sát trùng, giải độc. Từ 2.000 năm nay, Y học cổ truyền của nhiều dân tộc đã sử dụng diệp hạ châu đắp tại chỗ chữa các bệnh ngoài da như lở loét, sưng nề, ngứa ngáy… Người Peru tin rằng diệp hạ châu có tác dụng kích thích tiết dịch mật, tăng cường chức năng gan và dùng nó để điều trị sỏi mật, sỏi thận. Nó cũng được dùng chữa viêm bàng quang, vàng da phù, rối loạn tiêu hóa, đau bụng kinh. Người Brazil, Haiti cũng dùng cây thuốc này để chữa các bệnh tương tự.
Tại các vùng khác ở Nam Mỹ, diệp hạ châu được sử dụng rộng rãi để trị viêm gan B, viêm túi mật, thận, thống phong, sốt rét, thương hàn, cúm, cảm lạnh, kiết lỵ, đau dạ dày, mụn nhọt, lở loét, ung độc. Nó còn được sử dụng như một thuốc giảm đau, kích thích ngon miệng, kích thích trung tiện, tẩy giun, lợi tiểu, điều hòa kinh nguyệt ở phụ nữ…Tại nhiều nước châu Á (như Ấn Độ, Malaixia…), người dân cũng dùng diệp hạ châu để chữa viêm gan, vàng da, hen, lao, kiết lỵ, lậu, viêm phế quản, viêm da, viêm đường tiết niệu, giang mai.

Đào là thứ trái cây rất quen thuộc và cũng là một vị thuốc được sử dụng trong Đông y từ lâu đời. Đào còn có tên khác là đào tử, mao đào, đào thực, hồng đào, mạy phăng (Tày), co tào (Thái), phiếu kiào (Dao)… Tên khoa học: Prunus persica (L.) Batsch., họ hoa hồng (Rosaceae). Bộ phận dùng làm thuốc là nhân hạt (đào nhân), hoa, lá, nhựa và quả đào.


Về thành phần hóa học: Thịt quả đào chứa chất màu (carotenoid, lycopen, cryptoxanthin, zeaxanthin), đường, acid hữu cơ, vitamin và ít tinh dầu. Hạt đào chứa dầu béo; amygdalin, men emulsin, cholin, tinh dầu. Theo Đông y, thịt quả đào vị ngọt chua, tính ôn, vào can, trường vị. Có công năng sinh tân nhuận tràng, hoạt huyết tiêu tích. Dùng cho các trường hợp hen suyễn, viêm khí phế quản, cảm nắng sốt khát nước (thử nhiệt phiền khát), táo bón, bế kinh, chấn thương đụng giập.
Đào nhân vị đắng ngọt, tính bình, vào kinh tâm và can, có tác dụng phá huyết tiêu tích ứ, nhuận táo, hoạt tràng. Dùng cho các trường hợp bế kinh, trưng hà, xúc huyết, ứ huyết, trúng thương đụng giập, phong thấp, táo bón. Đào hoa (hoa và nụ đào) vị khổ tính bình; công năng lợi thủy, hoạt huyết, thông tiện. Dùng cho các trường hợp phù nề, đàm nhiều, táo bón, bí tiểu, bế kinh. Liều dùng 2 – 6 quả chín tươi hoặc dạng mứt khô; 6 -12g đào nhân.
Một số cách dùng đào nhân làm thuốc
Trị ứ huyết tắc kinh: đào nhân 12g, hồng hoa 6g, tam lăng 8g, đương quy 12g. Sắc uống.
Trị sau khi đẻ ứ huyết, đau bụng: đào nhân 12g, xuyên khung 6g, gừng thán 6g, đương quy 12g, cam thảo 4g. Sắc nước, hòa với nước tiểu trẻ em hoặc đun nóng với rượu để uống.
Nhuận tràng, thông tiện, trị đại tiện khó khăn: hạnh nhân 12g, đào nhân 12g, hoả ma nhân 12g, đương quy 12g, sinh địa 16g, chỉ xác 12g. Nghiền thành bột mịn, làm mật hoàn. Mỗi lần uống 8g, ngày uống 2 lần hoặc sắc nước uống.
Thoát mủ, tiêu nhọt: đại hoàng 12g, mẫu đơn bì 16g, đào nhân 12g, đông qua tử 12g, mang tiêu 12g. Sắc uống.
Một số món ăn – bài thuốc có đào
Đào chín gọt vỏ bỏ hạt, thái lát, dùng đường trắng ướp ăn tráng miệng sau bữa ăn. Dùng trợ tiêu hoá, kiện vị, nhuận tràng.
Đào chín 1-3 quả. Rửa sạch, gọt vỏ ngày ăn 2-3 lần. Dùng cho các trường hợp cảm nóng, cảm nắng, mất nước, khát nước.
Đào chín 2 quả, nhân hạt đào 9g, sirô 30g. Đào gọt vỏ ngoài, tách bỏ hạt; xay nhỏ với đào nhân, thêm nước chưng cách thủy cho chín nhừ. Ăn mỗi ngày 1 lần. Dùng cho các trường hợp bế kinh, kinh ít, thông kinh.
Ngày ăn 1 – 4 trái đào chín hoặc mứt đào khô để dưỡng da, làm đẹp da.
Đào nhân 50g, đại mễ (gạo tẻ) 60g. Nấu cháo cho ăn vào bữa sáng và bữa tối. Chữa mất ngủ hay quên lẫn, đau lưng, sỏi đường tiết niệu.
Đào nhân 30g, hạnh nhân 15g. Nghiền nát trộn với nước gừng mật ong liều lượng vừa ăn. Dùng cho các trường hợp suy hô hấp thở gấp, hen suyễn mạn tính.
Kiêng kỵ: Không nấu ăn với thịt ba ba, rùa, xương truật, bạch truật. Người có cơ địa nóng, tiểu đường, suy nhược cơ thể, trẻ em và phụ nữ có thai nên hạn chế dùng.

Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013


Một số bạn đọc gửi thư hỏi về bài thuốc “Tiêu đàm hóa ứ” dùng để chữa bệnh cao huyết áp. Thực ra không có bài thuốc nào mang tên như vậy, “tiêu đàm hóa ứ” trong y học cổ truyền là cụm từ chỉ chung những phương thuốc giúp tiêu ứ, tan đàm.



La bặc tử
Theo lương y Phạm Như Tá, trường hợp bị chứng tiêu đàm hóa ứ, người thầy thuốc Đông y hay dùng bài “Nhị trần thang” gia giảm. Nhị trần thang gồm có các vị thuốc sau: bán hạ chế (12 gr), trần bì (vỏ quýt – 10 gr), phục linh 8 gr, chích thảo 6 gr, sinh khương 3 gr, ô mai 1 quả. Đem tất cả sắc (nấu) để uống. Cách sắc như sau: cho các vị thuốc vào ấm đất sắc cùng 3 chén nước, nấu còn lại 1 chén, chắt ra; nước thứ hai cho tiếp 2 chén nước vào các vị thuốc, nấu còn lại nửa chén. Hòa hai nước lại chia làm 3 lần dùng trong ngày, dùng lúc nước thuốc còn ấm nóng.


Chích thảo
Lương y Phạm Như Tá cho hay, nhị trần thang được dùng trong chữa chứng đàm thấp gây ho, với các triệu chứng: ho đờm trắng, ngực đầy trướng, lợm giọng, buồn nôn, chân tay nhức mỏi, chóng mặt hồi hộp, rêu lưỡi trắng… Đây là một bài thuốc có tác dụng hóa đàm hòa vị nên được dùng khá rộng rãi cho các chứng bệnh sinh ra đàm như: phong đàm (do nhiễm phong tà mà gây bệnh) thì thêm vào các vị thuốc: nam tinh, bạch phụ tử, tạo giác, trúc lịch. Hàn đàm (do dương khí hư, nên hàn đàm và thấp tà kết hợp gây ra bệnh) thì thêm vị thuốc: can khương, tế tân. Nhiệt đàm (còn gọi là đàm hỏa, do ăn uống không điều độ gây ra) thì thêm các vị thuốc: qua lâu, hoàng cầm, thạch cao. Thực đàm (đàm kết tụ) thì thêm: la bặc tử, chỉ xác, sơn tra, mạch nha, thần khúc. Thấp đàm (đàm phát sinh do tỳ không vận hóa) thì thêm vị thuốc: thương truật, bạch truật.

Quả bơ không những là “thần dược” của sắc đẹp, ngăn cản tình trạng lão hóa, đẩy lùi bệnh tật mà còn tăng cường khả năng thụ thai ở những ca thụ tinh qua ống nghiệm.


Ngày càng có nhiều cuộc nghiên cứu giúp khám phá khả năng tiềm ẩn của trái bơ, loại trái cây không những vừa ngon miệng mà còn mang lại ích lợi vô vàn về mặt sức khỏe. Trong một nghiên cứu mới nhất về loại quả này, các chuyên gia Mỹ tại Bệnh viện đa khoa Massachusetts phát hiện một chế độ ăn kèm bơ và xà lách trộn dầu ô liu có thể tăng gấp 3 khả năng thụ thai thành công ở những phụ nữ đang cố gắng có con thông qua kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Theo tờ Daily Mail, thực phẩm chứa chất béo không bão hòa đơn thể, có nhiều trong dầu ô liu, dầu hạt hướng dương và các loại hạt, là bạn thân thiết của bất cứ phụ nữ nào đang ngóng đợi tin vui. Những người hấp thu loại chất béo trên nhiều nhất có tỷ lệ thụ thai cao gấp 3,4 lần thông qua IVF so với nhóm ăn ít nhất. Và thực phẩm tốt nhất cho các bà mẹ tương lai không gì khác ngoài trái bơ, theo trưởng nhóm nghiên cứu là giáo sư Jorge Chavarro.
Ngược lại, người hấp thu nhiều chất béo đã bão hòa, có trong bơ động vật và thịt đỏ, sản sinh ra ít trứng tốt hơn để có thể dùng thụ tinh. Đây cũng là lần đầu tiên các chuyên gia phát hiện công dụng hỗ trợ IVF của trái bơ và dầu ô liu, dạng thực phẩm chứa nhiều chất béo tốt cho thai phụ tương lai, theo báo cáo tại Tổ chức European Society of Human Reproduction and Embryology ở Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ).
Trước đó, các chuyên gia cũng phát hiện trái bơ có thể là “thần dược” của sắc đẹp, sau khi nó được phát hiện hỗ trợ cuộc chiến chống lão hóa và đẩy lùi bệnh tật. Kết quả nghiên cứu cho thấy một loạt các tác nhân môi trường, như ô nhiễm, khói thuốc lá và phóng xạ, có thể biến các phân tử ô xy bên trong ti thể thành các gốc tự do. Những phân tử bất ổn này hủy hoại toàn bộ các phân tử bình thường dùng để hình thành tế bào, như lipid, protein và thậm chí ADN, bằng cách biến chúng thành những phân tử gốc tự do. Hiện tượng tàn phá này có liên quan đến tình trạng lão hóa và dẫn đến nhiều dạng bệnh tật, bao gồm chứng tăng huyết áp và tiểu đường.
Nhiều cuộc nghiên cứu về chất chống ô xy hóa trong rau quả và trái cây, như cà rốt và cà chua, không cho kết quả đáng khích lệ như mong đợi. “Vấn đề ở đây là các chất chống ô xy hóa bên trong các loại trái cây đó không xâm nhập được vào ti thể”, theo chuyên gia Christian Cortes-Rojo của Đại học Michoacana de San Nicolas de Hidalgo (Mexico). Do đó, các gốc tự do tiếp tục tiến trình tàn phá ti thể, khiến việc sản xuất năng lượng ngừng lại và tế bào bị đẩy vào tình trạng bị hủy diệt.
Tuy nhiên, chuyên gia Cortes-Rojo đã công bố các kết quả nghiên cứu đầu tiên cho thấy hiệu quả bảo vệ ấn tượng của dầu trái bơ chống các gốc tự do bên trong ti thể. Theo đó, dầu quả bơ tăng cường khả năng hô hấp của ti thể, cho thấy các chất dinh dưỡng dùng để tạo ra năng lượng cho các chức năng của tế bào vẫn hoạt động hiệu quả dù nó đang bị các gốc tự do tấn công.
Một cuộc nghiên cứu khác do bác sĩ Mario Alvizouri-Munoz của Bệnh viện đa khoa Morelia tiến hành, cũng đã cho thấy trái bơ làm giảm nồng độ cholesterol và các chất béo có hại trong máu, loại trừ được nguy cơ đột quỵ hoặc đau tim.

Thứ Năm, 3 tháng 10, 2013

Măng tây được chia thành 2 loại xanh và trắng. Chúng ta có thể tìm thấy mangan, magnesium, sélenium, vitamin B1, B2, B3, B6, B9, C, A, E…, tóm lại là rất nhiều thành phần kháng ô xy hóa quan trọng trong đọt măng tây.


Tính năng
Tác dụng nhuận trường là không thể chối bỏ và được biết đến trong màng tế bào, trong việc giảm và thải bỏ sỏi thận, a xít uric (thấp khớp, thoái hóa khớp dạng thấp, thống phong…). Trong cơ chế hoạt động của tim – thận. Trong các trường hợp này, nước ép măng tây được dùng như một thức uống giúp thanh lọc, phục hồi khoáng chất, làm loãng máu, làm chậm lại trạng thái kích thích của tim. Măng tây tác động thải lọc gan và tất cả hệ thống thải như phổi, gan, ruột, da. Nó có tác động tốt cho hệ nội tiết.
Tuy nhiên, tính năng mà có lẽ người ta chú ý đến nhất là đối với ung thư. A xít folic (vitamin B9) có khả năng bảo vệ cơ thể khỏi ung thư phổi, tá tràng và tử cung. Glutathion là một protein nhỏ và thành phần kháng oxy hóa cực mạnh, giúp bảo vệ tế bào khỏi sự phát triển của ung thư. Một cuộc phân tích đối với 38 loại rau cải cho thấy măng tây tươi nấu chín đã đứng đầu danh sách về hàm lượng glutathion. Nhiều người đã dùng măng tây để trị liệu lâu dài chống ung thư và họ đã thấy hiệu quả rất khả quan. A xít folic cũng rất quý báu để ngăn ngừa các bệnh tim mạch, ngăn ngừa tai biến mạch máu não. Nó làm giảm tỷ lệ homocystéine máu – vốn là thành phần tích tụ làm tổn thương động mạch và hình thành khối máu đông.
Măng tây rất giàu inulin, một probiotic giúp cho các lợi khuẩn trong ruột khỏe mạnh. Măng tây còn giàu steroid, phytoestrogen, kích thích sản xuất testosteron (nội tiết tố nam). Theo một số tài liệu, người thời Trung cổ đã từng sử dụng măng tây như một liều thuốc gây hưng phấn tình dục.
Thưởng thức
Có thể chế biến măng tây theo nhiều cách, nhưng đơn giản nhất là luộc. Khi luộc măng nên để lửa nhỏ, ít nước và vớt ngay khi vừa chín tới. Ngoài ra còn có các món như canh măng cua, bò cuộn măng tây, salad măng tây, sò điệp xào măng tây… Những người dùng măng tây trị liệu ngăn ngừa ung thư thì thường nấu chín và xay nhuyễn để dùng hằng ngày.

Các nhà khoa học thuộc Trường đại học Missouri (Mỹ) phát hiện rằng apigenin, một chất tự nhiên có trong cần tây, mùi tây, có thể mở ra hướng điều trị bệnh ung thư vú.


Đó là nhờ hợp chất này có tác dụng làm teo khối u ung thư vú do progestin gây ra. Progestin là hormone tổng hợp thường được dùng để giảm các triệu chứng liên quan đến mãn kinh.
Theo hãng tin ANI, tác giả nghiên cứu Salman Hyder cùng các đồng nghiệp cấy ghép tế bào gây ung thư vú chết người, được gọi là BT-474, vào chuột thí nghiệm, được chia làm hai nhóm. Nhóm 1 được cho bổ sung medroxyprogesterone acetate (MPA), một loại progestin dành cho phụ nữ sau mãn kinh.
Nhóm 2 không bổ sung MPA. Nhóm 1 sau đó được điều trị với apigenin. Các chuyên gia nhận thấy, khối u ung thư lây lan nhanh chóng ở chuột không điều trị với apigenin. Còn ở chuột được điều trị apigenin, tăng trưởng của các tế bào ung thư vú giảm sút và khối u ung thư cũng bị teo lại.

Thứ Tư, 2 tháng 10, 2013

Cỏ ca ri hay hồ lô ba (danh pháp hai phần: Trigonella foenum-graecum) là một loài cây thuộc về họ Đậu (Fabaceae). Cỏ ca ri được sử dụng như là cây thuốc (phần lá) cũng như một loại gia vị (phần hạt). Nó được trồng rộng khắp trên thế giới như là một loại cây trồng bán khô hạn.


Tên gọi khoa học của cỏ ca ri là foenum-graecum có nguồn gốc từ tiếng La tinh để chỉ “cỏ khô Hy Lạp”. Zohary và Hopf lưu ý rằng người ta vẫn chưa chắc chắn nòi giống hoang dã nào của chi Trigonella đã tiến hóa để trở thành giống cỏ ca ri được con người trồng, nhưng tin rằng nó được đem vào gieo trồng lần đầu tiên tại khu vực Trung Cận Đông. Các hạt cỏ ca ri hóa than đã được phục hồi tại Tell Halal, Iraq (với niên đại cacbon phóng xạ là khoảng năm 4000 TCN) và tại các tầng thuộc thời kỳ đồ đồng ở Lachish (Shephelah, Israel), cũng như các hạt khô tìm thấy trong mộ của Tutankhamen [1]. Cato Già liệt kê cỏ ca ri cùng cỏ ba lá và đậu tằm như là các cây trồng để nuôi bò (De Agri Cultura, 27).
Các hạt cỏ ca ri màu vàng hay hổ phách, hình thoi, nói chung hay được sử dụng trong việc làm các món ngâm, bột ca ri khô và nhão, và nói chung hay bắt gặp trong các món ăn của ẩm thực Ấn Độ. Các lá non và chồi cỏ ca ri cũng được sử dụng làm rau ăn còn lá tươi hay khô được dùng để tạo hương vị trong nhiều món ăn khác. Các lá khô (người Ấn Độ gọi là kasuri methi) có vị đắng và mùi mạnh đặc trưng.
Tại Ấn Độ, các hạt cỏ ca ri được trộn với sữa chua và được dùng làm dầu dưỡng tóc. Nó cũng là một thành phần để sản xuất khakhra, một loại bánh mì. Nó được sử dụng trong injera/taita, một loại bánh mì chỉ có trong ẩm thực Ethiopia và ẩm thực Eritrea. Từ để chỉ cỏ ca ri trong tiếng Amhara là abesh (ኣብሽ), và tại đây nó được dùng làm cây thuốc để điều trị bệnh đái tháo đường. Nó đôi khi cũng được dùng như một thành phần để sản xuất một loại bơ (tiếng Amhara: qibé, Tigrinya tại Ethiopia và Eritrea: tesme), và nó là tương tự như ghee trong cách nói của người Ấn Độ. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, tên gọi của cỏ ca ri (çemen) cũng là tên gọi cho một loại bột nhão sử dụng trong pastirma (một món thịt bò ướp gia vị và đem phơi khô trong không khí). Tại Yemen, nó là gia vị chính và là một thành phần thêm vào món ăn dân tộc gọi là saltah. Sự tương tự giữa từ hulba trong tiếng Ả Rập và từ huluba trong tiếng Trung quan thoại biểu lộ tầm quan trọng của cỏ ca ri trong lịch sử. Cỏ ca ri, hay Şambélilé trong tiếng Ba Tư, là một trong bốn cây thuốc được sử dụng trong đơn thuốc của người Iran là ghormeh sabzi.
Tại Ai Cập, các hạt cỏ ca ri được dùng như chè.
Các hạt cỏ ca ri là nguồn giàu polysacarit galactomannan. Nó cũng là nguồn chứa các saponin như diosgenin, yamogenin, gitogenin, tigogenin và neotigogen. Các thành phần hoạt hóa sinh học khác còn có chất nhầy, tinh dầu và các ancaloit như cholin và trigonellin.
Hiệu ứng phụ khi sử dụng, thậm chí chỉ một lượng nhỏ cỏ ca ri (ngay cả khi pha loãng với nước) là mùi xi rô phong hay ca ri trong mồ hôi và nước tiểu, do hợp chất thơm sotolon gây ra. Cỏ ca ri cũng hay được dùng trong sản xuất chất tạo mùi cho các loại xi rô nhân tạo. Hương vị của cỏ ca ri nướng là do các pyrazin thay thế, giống như thì là Ai Cập (Cuminum cyminum). Tự bản thân nó thì nó có vị hơi đắng.
Hạt cỏ ca ri khô
Cỏ ca ri được sử dụng chủ yếu là hỗ trợ tiêu hóa. Nó là lý tưởng để điều trị rò xoang, sung huyết phổi, giảm viêm nhiễm [3]. Nó cũng được sử dụng trong vai trò của chất làm tăng tiết sữa cho các bà mẹ đang nuôi con bú. Nó có thể được tìm thấy trong dạng viên nang tại các hiệu thuốc thực phẩm[2].
Việc sử dụng hạt cỏ ca ri cho thấy nó có tác dụng hạ cholesterol, triglyxerit và các lipoprotein có tỷ trọng thấp ở người và các vật mẫu thực nghiệm (Basch và ctv., 2003). Several human intervention trials chứng minh rằng các hiệu ứng chống đái tháo đường của hạt cỏ ca ri cải thiện phần lớn các triệu chứng trao đổi chất có liên quan tới đái tháo đường kiểu 1 và kiểu 2 ở cả người lẫn các động vật thực nghiệm (Basch và ctv., 2003; Srinivas, 2005). Hiện tại, nó đã có bán dưới dạng viên nang theo các đơn thuốc như là chất bổ sung ăn kiêng để kiểm soát bệnh đái tháo đường và cao cholesterol.
Trong một số thí nghiệm gần đây, hạt cỏ ca ri có tác dụng chống lại ung thư vú (Amin và ctv., 2005) và ruột kết (Raju và ctv., 2006). Các tính chất bảo vệ gan của hạt cỏ ca ri cũng được thông báo trong một vài vật mẫu thực nghiệm (Raju và Bird, 2006;

Cây xạ đen có tên khoa học là Celastrus hindsii Benth.et Hook. Trong xạ đen có chứa các chất: Fanavolnoid (chất chống oxy hóa có tác dụng phòng chống ung thư); Saponin Triterbenoid (có tác dụng chống nhiễm khuẩn); Quinon (có tác dụng làm cho tế bào ung thư hóa lỏng dễ tiêu). Cây xạ đen có tác dụng phòng chống trong điều trị ung thư, hạn chế phát triển của các khối u; tiêu viêm giải độc, mát gan; ăn ngủ tốt, tăng cường sức đề kháng của cơ thể.


Một số bệnh nhân có bệnh đường tiêu hóa nói chung (viêm loét dạ dày, tá tràng; ung thư dạ dày mới phát hiện; viêm gan mạn tính; xơ gan đơn thuần hoặc ung thư gan giai đoạn đầu; sau mổ sỏi túi mật; viêm đại tràng mạn tính; rối loạn tiêu hóa, ăn chậm tiêu, táo bón…) đã uống nước sắc từ cây xạ đen, một số người dùng thấy có kết quả phần nào.
Tuy nhiên, cũng cần biết rằng, dù sử dụng loại nam dược nào cũng tùy thuộc vào cơ địa của mỗi bệnh nhân, không phải bệnh nhân nào dùng cũng đạt kết quả như nhau được. Nhưng với cây xạ đen, theo chúng tôi được biết từ năm 2003 đã qua nhiều ứng dụng lâm sàng trong nước, nhưng chưa có một tác dụng phụ nào.
Có thể dùng xạ đen như sau: lấy 100 gam xạ đen rửa thật sạch cho vào siêu đất với 800 ml nước, đun sôi trên 30 phút rồi gạn lấy nước uống thay cho nước uống khác trong ngày. Dùng khi nào nước sắc nhạt màu thì thay ấm khác. Nước xạ đen nếu để trong tủ lạnh càng thơm ngon, rất dễ uống.

Thứ Ba, 1 tháng 10, 2013

Cây huệ rừng tên khoa học  Dianella ensifolia. Chúng sinh trưởng rất nhiều ở những nơi có độ cao khoảng 1.600 m so với mực nước biển.

Cây có vị cay, tính ấm, có độc nhiều; có tác dụng khử phong, khử độc sát trùng, lợi niệu. Ở Trung Quốc và Malaysia, người ta dùng thân, rễ cây này để chế thành thuốc chữa mụn rộp mọc vòng, mụn nhọt, ghẻ ngứa… Cách sinh sản là lây lan qua thân rễ ngầm và ra hoa vào cuối mùa xuân.


Bệnh rọm, một căn bệnh làm người mắc phải vô cùng đau đớn, dẫn tới dị tật tay chân.
Bệnh rọm là bệnh nhiễm trùng, thường xuất hiện ở bàn tay, chân gây đau nhức, dẫn đến hoại tử nhưng điều trị kháng sinh thường không khỏi. Bệnh có triệu chứng giống với các loại ung nhọt có mủ xanh bên trong, nhưng nếu can thiệp bằng giải phẫu, hay chích nặn mủ bằng các vật kim loại, thường sẽ làm cho bệnh trầm trọng hơn. Có nhiều bệnh nhân, sau khi nằm viện điều trị kháng sinh không khỏi phải tháo khớp, cắt bớt ngón tay, ngón chân mà bệnh vẫn không hết, tiếp tục ăn vào cả vết mổ, gây trầm trọng hơn.
Theo người dân vùng núi, bệnh rọm do râu mép của con cọp (hổ) khi về già rụi tàn để lại một loại vi khuẩn ký sinh vào cây cối, khi người ta đụng phải nó thì gây nên bệnh rọm… Bệnh thường nhiễm qua bàn tay, chân, biểu hiện ban đầu là vừa nhức vừa ngứa, khi sưng lên thường xuất hiện vệt trắng nhỏ hình bầu dục có tia nhỏ chung quanh.
Có ba loại dược liệu không thể thiếu là cây thuốc rọm, phèn chua và lá chuối tiêu. Sau khi bào chế, miếng thuốc được đắp vào vùng nhiễm trùng của người bệnh, người nhẹ thì vài ba ngày lành, nặng thì phải gần ba tuần. Nguyên tắc là thuốc phải được đắp đều đặn đến khi nào hết đau nhức, liền da…

Sắn dây có những bộ phận thường dùng: củ (còn gọi là cát căn), hoa (cát hoa), dây (cát căn đằng), bột từ củ sắn dây gọi là cát phấn… Sau đây là những bài thuốc trị bệnh từ loại cây này. 


1. Cát căn: theo Đông y, củ sắn dây có vị ngọt, mát, tính bình, đi vào kinh tỳ, vị, phế, bàng quang, có tác dụng thanh nhiệt, giải cơ (chứng cổ gáy bị cứng do cảm nắng, huyết áp cao). Củ sắn cạo sạch vỏ ngoài, thái mỏng theo chiều dọc, phơi khô dùng làm thuốc trị cảm nắng, khô cổ khát nước, ban sởi không mọc được. Mỗi lần nấu từ 8-30 gr, có thể nướng vàng (hay sao vàng) rồi nấu nước uống. Củ sắn dây đem nướng vàng, rồi sắc hoặc tán bột dùng có tác dụng trị tiêu chảy khó tiêu. Ngoài ra, củ sắn dây tươi đem rửa sạch, luộc mềm, ăn sẽ tốt cho tỳ vị và mát cơ thể.
2. Cát hoa: dùng 20-40 gr hoa sắn dây (loại khô) đem nấu nước uống, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, nhất là giải rượu.
3. Cát căn đằng: dùng dây sắn đốt tồn tính (đốt chưa cháy hoàn toàn) rồi đem tán bột, uống với nước có tác dụng trị viêm họng, viêm thanh quản cấp tính.
4. Cát phấn: bột củ sắn dây đem pha với nước lọc, đường, chanh trị chứng cảm nắng đau đầu, khô mũi, tiểu vàng. Bột sắn dây còn trị được kiết lỵ do ăn nhiều thức ăn cay, nóng – bằng cách hòa bột với nước cho tan đều, thêm vào một ít đường, rồi bắc lên bếp, khuấy đều tay đến khi dung dịch này đặc lại là dùng được. Hoặc chế biến “chè bông cau” từ bột củ sắn dây, bằng cách: Đậu xanh đã cà vỡ đem ngâm trong nước cùng một ít muối trong 2 giờ. Nấu nồi nước sôi, cho đậu xanh vào nấu đến khi đậu thật mềm. Dùng bột sắn dây đã hòa tan trong nước lạnh cho từ từ vào nồi đậu xanh, vừa cho vào vừa khuấy đều tay, rồi cho đường, hương liệu vào. Chờ sôi lại khoảng 2 phút chè trong nồi chuyển từ trắng đục sang trong. Món chè này có tác dụng thanh nhiệt, bồi bổ cơ thể.
Trồng 1 gốc sắn dây, mỗi gốc chỉ mất khoảng 2m2 đất, 5kg phân NPK, 1 ít phân chuồng, vài kg kali nhưng thu được từ 55-60 kg củ sắn tươi, chế biến được 10 kg bột sắn khô. Mỗi kg bột sắn khô bán trên thị trường với giá từ 45.000-55.000 đồng. Cây sắn dây được trồng từ khoảng tháng giêng, tháng hai và thu hoạch vào tháng Chạp. Nó có ưu điểm là trồng để tận dụng đất trong vườn nhà, dễ trồng, có thể chống chọi được với thời tiết khô hạn và lạnh giá, lại không bị sâu bệnh phá hại.
5 – Một số ứng dụng cụ thể khác
- Chảy máu mũi suốt ngày không ngừng, tâm thần phiền muộn: Củ sắn dây tươi giã nát, vắt lấy nước cốt, uống mỗi lần một chén con.
- Rắn cắn: Giã lá sắn dây tươi vắt lấy nước uống, bã đắp lên nơi rắn cắn.
- Vết thương chảy nhiều máu: Dùng lá sắn dây tươi giã nát, đắp vào vết thương.
- Viêm ruột, đau bụng đi ngoài giống kiết lỵ, cồn cào, buồn bực, nôn ọe do uống nhầm các thứ thuốc nóng hoặc quá mãnh liệt: Dùng bột sắn dây quấy đường uống; hoặc dùng cát căn 30 g, rau má 20 g giã nát, chế thêm nước, vắt lấy nước cốt uống trong ngày.
- Trẻ sơ sinh miệng mím chặt, sùi bọt mép, không bú được: Lấy một đoạn dây sắn dây đốt thành than, nghiền mịn, dùng khoảng 3-5 g bột hòa với sữa mẹ, nhỏ vào miệng trẻ. Làm như vậy vài lần trẻ sẽ mở miệng và bú được.
- Ngực nóng, thổ huyết không ngừng: Củ sắn dây tươi giã nát, vắt lấy 500 ml uống.

Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

Phù thũng do viêm thận, viêm khí quản, cao huyết áp…, những bệnh này đều có thể được cải thiện nhờ quả dứa.


Giải khát: Thịt quả dứa (quả thơm) 500 gr, chia làm hai lần ăn sống. Hoặc giã nát vắt lấy nước, pha với nước sôi để nguội, chia làm hai phần uống hai lần.
Chữa viêm thận phù thũng, tiểu tiện khó: Thịt quả dứa 60 gr, rễ cỏ tranh tươi 30 gr sắc nước uống. Hoặc rễ cỏ tranh tươi cho nước vừa đủ đun khoảng 30 phút, sau đó vớt bỏ rễ cỏ tranh, cho vào 500 gr nước dứa tươi, tiếp tục đun cho tới khi đặc lại thì rút lửa, cho thêm 500 gr đường trắng trộn đều đem phơi khô rồi tán nhỏ, cho vào lọ dùng dần. Mỗi lần dùng 10 gr, pha với nước sôi, uống ngày ba lần.
Chữa viêm khí quản, ho không đờm: Thịt quả dứa 120 gr, mật 30 gr, đun nước uống.
Chữa cao huyết áp, phù thũng: Dứa gọt vỏ vắt lấy nước, mỗi lần uống 30 ml với nước sôi để nguội, ngày 2 – 3 lần.
Chú ý: Dứa dễ gây phản ứng cho một số người quá mẫn cảm. Để tránh xảy ra ngộ độc dứa, trước khi ăn cần gọt sạch, cắt miếng, ngâm vào nước muối nồng độ 1%, sau 20 phút mới ăn, tuyệt đối không ăn quá nhiều dứa khi đói.
Những người viêm loét đường tiêu hoá, người mắc bệnh gan hoặc thận nặng, chức năng đông máu kém không nên ăn dứa.
Design by Hao Tran -