Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2013

Quế chi


Tên thuốc: Ramulus Cinnamoni.

Tên khoa học: Cinnamomum loureirrii Ness.

Họ Long Não (Lauraceae)

Bộ phận dùng: vỏ.

- Việt Nam có nhiều loại quế: quế nổi tiếng nhất là Quế Thanh (Thanh Hoá, C.loureiri Nees) rồi đến Quế quy.

- Vỏ quế bóc ở một cây phân chia ra nhiều loại tốt xấu khác nhau, và tác dụng khác nhau.
+ Quế hạ bản: lấy ở phần dưới thân. Thứ này hay giáng xuống mà ít bốc lên.
+ Quế trung châu: lấy ở phần giữa thân cây.
+ Quế thượng biểu: lấy ở phần trên cây.
Hai thứ này có tác dụng bốc lên.
+ Quế chi: lấy ở cành cây, Quế chi tiêm lấy ở ngọn cành. Thứ này đi ra ngoài thân và chân tay.
- Cách xem quế tốt xấu: có nhiều cách:
+ Cạo bỏ vỏ ngoài, mài với ít nước, nếu ra chất trắng như sữa bò là tốt nhất, nếu nước như nước chè xanh là loại hai, nếu nước đỏ là loại ba.
+ Nếm miếng quế thấy vị ngọt cay, sau thấy đắng, cuối cùng thấy ngọt (cay ít thôi) là quế tốt.
+ ở Thanh Hoá có câu ‘lòng son, vỏ khế’ là nói lên quế tốt phải như thế.
+ Gọt vỏ quế, cắt đôi, chỗ cắt trong như sáp, rất mịn và thấy có đường ‘bạch chỉ phân du’ là quế tốt. Sợi chỉ trắng này phải thẳng nếu ngoằn ngoèo là không tốt lắm.
+ Tây y cho quế tốt là phải có tỷ lệ tinh dầu cao. Nhưng nói chung quế khô, có mùi thơm, có chất dầu, vị cay hơi ngọt, vỏ hơi nâu không vụn nát, ẩm là tốt.
- Ở Trung Quốc có loại quế đơn, quế bì, còn gọi là quế nhục (C.cassia BL) cây này có mọc ở nước ta. Trên thị thường còn có quan quế hay quế xây lăng (C.Zeylanicum Nees) có giá trị nhất.
Tính vị: vị ngọt, cay, tính đại nhiệt. Vào hai kinh Can và Thận.
Chủ trị: trị chân tay lạnh, tả lỵ, đau bụng, bế kinh, tiêu hoá, kiện Vị.
- Ngoại cảm phong hàn: Dùng Quế chi với Ma hoàng làm tăng tác dụng tăng tiết mồ hôi của Quế.
- Thể phong hàn của hội chứng hư biểu biểu hiện như ra mồ hôi, sợ gió, sốt, mạch Phù Trì: Dùng Quế chi với Bạch thược trong bài Quế Chi Thang.
- Ðau khớp do nhiễm phong, hàn và thấp biểu hiện như đau các khớp, chân tay, vai và lưng: Dùng Quế chi với Phụ tử.
- Tâm Tỳ dương hư ởbiểu hiện như trống ngực, phù và thở nông: Dùng Quế chi với Phục linh và Bạch truật.
- Dương suy ở ngực biểu hiện như đau ngực, trống ngực hoặc rối loạn nhịp tim: Dùng Quế chi với Giới bạch, Qua lâu, Đào nhân, Mẫu đơn bì và Phục linh trong bài Quế Chi Phục Linh Thang.
Cách Bào chế:
Theo Trung Y: Gọt sạch bì thô. Với thuốc thang thì mài với nước thuốc, làm thuốc hoàn tán thì tán bột.
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Đối với quế thật tốt, chỉ mài trong bát sành với ít nước đun sôi để nguội, hoặc với ít nước thuốc thang để uống.
Làm nước hãm (quế thường): cạo bỏ bì thô, gọt thành miếng mỏng. Tẩm nước đồng tiện 1 – 2 ngày đêm (để giáng hoả vì nóng quá xông lên hại mắt).
Cho miếng quế đã tẩm vào cái chén có nắp, đổ nước sôi vào rồi róc ngay ra bỏ đi, cho vào nước sôi khác, lần này để ngấm nguội rồi mới lấy ra uống. Uống lần sau pha với nước khác mà dùng. Một lượt vỏ quế như thế có thể pha 2 – 3 lần.
Bảo quản: để tránh mất hương vị của quế, trát sáp mật ong vào hai đầu thanh Quế, dùng giấy bóng kính gói kỹ, đựng vào thùng kín. Để nơi khô ráo, kín, mát, tránh nơi ẩm.
Kiêng ky: không phải hư hàn không nên dùng.
Thận trọng khi dùng Quế chi cho thai phụ.

Thứ Năm, 19 tháng 9, 2013


Tên thuốc: Radix Angelicae.

Tên khoa học: Angelica dahurica Benth et Hook

Họ Hoa Tán (Umbelliferae)

Bộ phận dùng: rễ. Rễ hình dùi tròn, có từng vành, phía dưới chia rễ nhánh cứng, ngoài vỏ vàng nâu nhợt, trong trắng ngà, có từng đường vạch dọc, thơm, cay, to, dày, không mốc mọt là tốt.

Thường lầm với Độc hoạt

Tính vị: vị cay, tính ôn.
Quy kinh: Vào phần khí của kinh Phế, Vị và Đại trường, cũng vào phần huyết.
Tác dụng: phát biểu, giải cơ, tán phong, táo thấp, hưng phấn thần kinh trung ương, hành huyết.
Chủ trị: Dùng sống: trị nóng rét, nhức đầu, cảm mạo; bôi chữa lở sơn (nước sắc 50%).
Tẩm giấm sao: trị lâm lậu. Sao cháy: trị đại tiện ra máu.
- Cảm phong hàn đau đầu, tắc mũi: Dùng Bạch chỉ với Đậu xị và Sinh khương.
- Viêm xoang mũi: Dùng Bạch chỉ với Thương nhĩ tử, Tân di trong bài Thương Nhĩ Tán.
Liều dùng: Ngày dùng 4 – 8g
Cách bào chế:
- Theo Trung Y: Người xưa hái Bạch chỉ về, cạo sạch vỏ, thái nhỏ, lấy Hoàng tinh (số lượng bằng nhau) cùng bỏ vào nồi đồ một lúc, lấy Bạch chỉ phơi khô dùng.
Ngày nay khi lấy về, rửa sạch, cắt ra từng khúc trộn vào vôi (để cho sắc trắng và khỏi mọt) phơi khô. Khi dùng cho vào thuốc thì sao qua. Có thể sao cháy, hoặc tẩm giấm sao.
- Theo kinh nghiệm Việt Nam: Rửa qua cho sạch, ủ 3 giờ cho mềm. Thái nhỏ phơi trong râm cho khô. Không sao tẩm gì.
Bảo quản: để nơi khô ráo, đậy kín, bảo quản bằng vôi sống, tránh nóng.
Ghi chú:
Thứ Bạch chỉ di thực của Trung Quốc có vỏ màu nâu ruột thì gần giống Độc hoạt, dẻo và xốp.
Bạch chỉ nam: có nhiều bột trắng, vị hơi the, chỉ dùng thay được Bạch chỉ trong bệnh lở ngứa.
Kiêng ky: âm hư và hoả uất không nên dùng.

Thảo ma hoàng


Xuất xứ:
Bản Kinh.
Tên khác:
Long sa (Bản Kinh), Ty diêm, Ty tướng (Biệt Lục), Cẩu cốt, Xích căn (Hòa Hán Dược Khảo), Đậu nị thảo, Trung ương tiết thổ, Trung hoàng tiết thổ (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). Tịnh ma hoàng, Khử tiết ma hoàng, Bất khử tiết ma hoàng, Ma hoàng chích mật (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Tên khoa học:
Ephedra sinica Stapf.
Ephedra equisetina Bge.
Ephedra intermedia Schrenk et Mey.
Họ khoa học:
Họ Ma hoàng (Ephedraceae).
Mô Tả:
Thảo ma hoàng (Ephedra sinica Stapf.) còn gọi là Điền ma hoàng hay Xuyên ma hoàng: cây thảo, mọc thẳng đứng, cao 30-70cm. Thân có nhiều đốt, mỗi đốt dài chừng 3-6cm trên có rãnh dọc. Lá mọc đối hay mọc vòng từng 3 lá một, thoái hóa thành vảy nhỏ, phía dưới lá màu hồng nâu, phía trên màu tro trắng, đầu lá nhọn và cong. Hoa đực hoa cái khác cành. Cành hoa đực nhiều hơn (4-5 đôi). Quả thịt màu đỏ.
Mộc tặc ma hoàng (Ephedra equisetina Bge.): cây mọc thẳng đứng, cao tới 2m. Cánh cứng hơn, màu xanh xám hay hơi trắng. Đốt ngắn hơn, thường chỉ dài 1-3cm, lá dài 2mm, màu tía. Hoa đực và cái khác cành. Quả hình cầu, hạt không thò ra như Thảo ma hoàng. Phân biệt với Thảo ma hoàng ở chỗ: Thảo ma hoàng có đốt dài hơn (3-6cm), hạt thò ra nhiều hơn.
Trung ma hoàng (Ephedra intermedia Schrenk et Mey.) cũng có đốt dài như Thảo ma hoàng, nhưng đường kính cành Trung ma hoàng thường hơn 2mm, còn đường kính Thảo ma hoàng chỉ khoảng 1,5mm.
Địa lý:
Ma hoàng chưa thấy có ở nước ta, còn phải nhập ở Trung Quốc.
Thu hái, Sơ chế:
Cuối mùa thu cắt lấy thân mầu, phơi khô.
Bộ phận dùng:
Thân (bỏ đốt). Thứ thân to, mầu xanh nhạt, ít gốc, chắc, vị đắng, chát là tốt.
Mô tả dược liệu:
Thân hình trụ tròn, nhỏ dài, có phân chi và có dính ít gốc chất gỗ mầu nâu. Dài khoảng 40cm, đường kính độ 0,2cm, mầu vàng lục hoặc xanh nhạt. Ở thân có đường nhăn nhỏ, chạy dọc, sờ vào hơi có cảm giác thô, đốt rõ. Trên đốt có 2 – 3 lá nhỏ, trên mầu trắng xám, đầu nhọn, dưới gốc mầu nâu liền với nhau thành dạng hình ống. Chất nhẹ, dòn, dễ bẻ. Bẻ ra có bụi nhỏ bay ra. Mặt bẻ không bằng, hơi có xơ, trong ruột mầu vàng hồng. Hơi thơm, vị đắng, hơi chát (Dược Tài Học).
Bào chế:
+ Cắt bỏ rễ, nấu sôi 10 dạ, vớt bỏ bọt, dùng (Lôi Công Bào Chế).
+ Nấu giấm sôi, phơi khô (Lôi Công Bào Chế).
+ Tẩm mật, sao. Trước hết cho 1 ít nước vào mật, quấy đều, đun sôi, trộn đều Ma hoàng sạch, thái đoạn với nước mật, sao nhỏ lửa đến khi không dính tay là được (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Thân cắt khúc 1-2 cm (dùng sống). Tẩm mật loãng hoặc tẩm giấm sao qua (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
Bảo quản:
Để nơi mát, khô, tránh ánh nắng.
Thành phần hóa học:
Trong Ma hoàng có:
+ Ephedrine, Pseudoephedrine, Norephedrine, Norpseudoephedrine, Methylephedrine, Methylpseudoephedrine (Trương Kiên Sinh, Dược Học Học Báo 1989, 24 (11): 865).
+ Ephedroxane (Chohachi Konno và cộng sự, Phytochemỉsty, 1979, 18 (4): 697).
+ a, a, 4-Trimethyl-3-Cyclohexen-1-Methanol, b-Terpineol, p-Meth-2-en-7-ol), a-Terpineol, 2,3,5,6-Tetramethylpyrazine (Gỉa Nguyên Ấn – Trung Quốc Dược Học Tạp Chí 1989, 24 (7): 402).
+ Benzoic acid, p-Hydroxybenzoic acid, Cinnaic acid, p-Coumaric acid, Vanillíc acid, Protocatechuic acid (Chumbalov T K và cộng sự. C A, 1977, 87: 81247p).
Tác dụng dược lý:
+ Dùng liều cao hoặc uống quá lâu ngày có thể gây ra mồ hôi ra quá nhiều gây nên suy nhược. Ma hoàng nướng mật có tác dụng làm giảm trạng thái phát hãn này (Trung Dược Học).
+ Có thể làm tăng huyết áp (Trung Dược Học).
+ Tác dụng phát hãn: Chỉ dùng lúc nóng ở người thấy có tác dụng làm tăng bài tiết mồ hôi. Thử độc vị trên thực nghiệm chưa thấy rõ (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Tác dụng giải nhiệt: Tinh dầu Ma hoàng có tác dụng hạ nhiệt đối với chuật nhắt bình thường (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Tác dụng chống co thắt phế quản từ từ và kéo dài do Ephedrin làm gĩan cơ trơn khí quản (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Tác dụng lợi tiểu: Alcaloid Ma hoàng có tác dụng lợi tiểu rõ (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Có tác dụng làm co thắt cơ vòng bàng quang gây ra ứ nước tiểu (Thực Dụng Trung Y Học).
+ Alcaloid Ma hoàng có tác dụng kích thích bài tiết nước tiểu và dịch vị (Những Cây thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Tác dụng tăng áp: Ephedrin làm co thắt mạch máu, vì vậy làm huyết áp tăng nhưng chậm và kéo dài vài giờ (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Ephedrin có tác dụng hưng phấn vỏ não, làm tinh thần phấn chấn, hưng phấn trung khu hô hấp, làm giảm tác dụng của thuốc ngủ (Những Cây thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Tác dụng kháng Virus: Ma hoàng có tác dụng ức chế Virus cúm [do tinh dầu Ma hoàng] (Dược Học Báo 10 (3): 147-149, 1963).
+ Rễ Ma hoàng có tác dụng hoàn toàn ngược với cành và thân Ma hoàng (Những Cây thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Cao lỏng Ma hoàng tiêm vào động vật thấy huyết áp giảm, mạch máu ngaọi vi gián, hô hấp tăng nhanh (Những Cây thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
Tính vị:
+ Vị đắng, tính ôn (Bản Kinh).
+ Vị hơi ôn (Biệt Lục).
+ Vị ngọt, tính bình (Dược Tính Luận).
+ Vị hơi đắng mà cay, tính nhiệt mà khinh trưởng (Bản Thảo Cương Mục).
+ Vị chua, hơi đắng, tính ấm (Trung Dược Học).
+ Vị cay đắng, tính ôn (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Vị cay, hơi đắng, tính ôn (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Quy kinh:
+ Vào kinh túc Thái âm [Tỳ] (Trân Châu Nang).
+ Vào kinh túc Thái âm [Tỳ], thủ Thiếu âm [Tâm] (Thang Dịch Bản Thảo).
+ Vào kinh Phế, Bàng quang (Trung Dược Học).
+ Vào kinh Phế, bàng quang (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Vào kinh phế, Bàng quang, Tâm, Đại trường (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Tán hàn, giải biểu, tuyên phế, bình suyễn, lợi niệu, tiêu thủng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tác dụng:
+ Phát biểu, xuất hãn, khứ taf nhiệt khí, chỉ khái nghịch thượng khí, trừ hàn nhiệt, phá trưng kiên tích tụ (Bản Kinh).
+ Giải biểu, khứ phong, tuyên Phế, bình suyễn, lợi niệu, tiêu phù (Trung Dược Học).
+ Phát hãn, bình suyễn, lợi thủy (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Phát hãn, bình suyễn, lợi tiểu, tán tụ (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Chủ trị:
+ Trị thương hàn, trúng phong, đầu đau, ôn ngược (Bản Kinh).
+ Trị sốt cao, ôn ngược, ôn dịch (Dược Tính Luận).
+ Trị mắt sưng đỏ đau, thủy thủng, phong thủng, sản hậu huyết trệ (Bản Thảo Cương Mục).
+ Trị ngoại cảm phong hàn, suyễn, phù thủng (Trung Dược Học).
+ Trị phong thấp khớp có hiệu quả (Hiện Đại Thực Dụng trung Dược).
+ Hậu phác làm sứ của nó (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
+ Bạch vi làm sứ cho nó (Độc Bản Thảo).
Kiêng kỵ:
+ Cuối mùa xuân có chứng ôn ngược, đầu mùa hè có chứng hàn dịch, nhất thiết phải kiêng dùng. Người hư yếu cũng cấm dùng. Nếu uống nhiều quá thì sẽ bị vong dương. Chứng thương phong có mồ hôi với chứng âm hư thương thực cũng cấm dùng. Bệnh không có hàn tà hoặc hàn tà tại phần lý và thương hàn có mồ hôi thì tuy có phát sốt, sợ lạnh đều không nên dùng (Dược Phẩm Vậng Yếu).
+ Người bị biểu hư, mồ hôi ra nhiều, ho suyễn do phế hư: không dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Huyết áp cao, tim suy: dùng nên cẩn thận (Thực Dụng Trung Y Học).
+ Kỵ Tế tân và Thạch vi (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
+ Người thổ huyết không được dùng. Cơ thể vốn khí hư, suy nhược, có thai: không dùng (Dược Tính Thông Khảo).
Liều dùng: 2 – 12g.
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị ngoại cảm phong hàn, biểu thực, không mồ hôi: Ma hoàng, Quế chi đều 8g, Hạnh nhân 12g, Cam thảo 4g. Sắc uống (Ma Hoàng Thang – Thương Hàn Luận).
+ Trị thận viêm, thủy thủng cấp tính có nội nhiệt: Ma hoàng 8g, Thạch cao (sống) 40g, Cam thảo 4g, Đại táo 12g, Sinh khương 8g. sắc uống (Việt Tỳ Thang – Thương Hàn Luận).
+ Trị thận viêm, thủy thủng cấp kèm cảm nhiễm ngoài da: Ma hoàng 8g, Liên kiều 12g, Xích tiểu đậu 20g, Tang bạch bì 12g, Hạnh nhân 12g, Cam thảo 4g, Sinh khương 4g, Đại táo 3 trái. Sắc uống (Ma Hoàng Liên Kiều Xích Tiểu Đậu Thang – Thương Hàn Luận).
+ Trị thương hàn phần biểu chưa giải, vùng dưới tim có thủy khí, nôn khan, sốt mà ho hoặc khát hoặc tiêu chảy hoặc ngăn nghẹn, hoặc tiểu ít không thông, bụng dưới đầy, suyễn: Ma hoàng (bỏ mắt), Thược dược,Tế tân, Can khương, Cam thảo (chích), Quế chi (bỏ vỏ) đều 3 lạng, Ngũ vị tử nửa thăng, Bán hạ nửa thăng (cho vào trước). Sắc uống (Tiểu Thanh Long Thang – Thương Hàn Luận).
+ Trị dưới tim hồi hộp: Bán hạ, Ma hoàng, lượng bằng nhau. Tán bột. Trộn mật làm viên, to bằng hạt đậu lớn. mỗi lần uống 3 viên, ngày 3 lần (Bán Hạ Ma Hoàng Hoàn – Kim Quỹ Yếu Lược).
+ Trị bệnh về thủy, mạch Trầm, Tiểu thuộc về chứng Thiếu âm: Ma hoàng 90g, Cam thảo 60g, Phụ tử 1 củ (nướng). Sắc uống (Ma Hoàng Phụ Tử Thang – Kim Quỹ Yếu Lược).
+ Trị thương hàn hoàng đản biểu nhiệt: Ma hoàng 1 nắm, bỏ đốt, cho vào bọc vải, ngâm với 5 thăng rượu, chưng còn ½ thăng, uống cho ra mồ hôi (Ma Hoàng Thuần Tửu Thang – Thiên Kim Phương).
+ Trị trúng phong tay chân co rút, các khớp đau nhức, phiền nhiệt, tâm loạn, sợ lạnh, không muốn ăn uống: Ma hoàng 30 thù, Hoàng kỳ 12 thù, Hoàng cầm 18 thù, Độc hoạt 30g, Tế tân 12 thù. Sắc uống (Tam Hoàng Thang – Thiên Kim Yếu Phương).
+ Trị biểu hàn, ho, suyễn mà sợ lạnh, không mồ hôi: Ma hoàng 8g, Hạnh nhân 12g, Cam thảo 4g. Sắc uống nóng (Tam Ảo Thang – Cục Phương).
+ Trị thiên hành nhiệt bệnh mới phát 1 – 2 ngày: Ma hoàng 40g, bỏ đốt. Sắc với 4 thăng nước còn 2 thăng, bỏ bã. Thêm 1 nắm Gạo tẻ vào nấu thành cháo. Lấy nước thuốc xông còn cháo thì ăn. Ra mồ hôi thì khỏi (Tất Hiệu phương).
+ Trị phong tý, đau do lạnh: Ma hoàng bỏ rễ 150g, Quế tâm 60g. ngâm với 2 lít rượu. Mỗi lần uống 1 thìa canh cho ra mồ hôi là phong sẽ hết. Mỗi lần uống nên hâm nóng (Thánh Huệ Phương).
+ Trị sản hậu bụng đau, máu ra không dứt: Ma hoàng (bỏ đốt), uống với rượu. Ngày 2 – 3 lần thì huyết sẽ hết ra (Tử Mẫu Bí Lục).
+ Trị lưu đờm, âm đản, mụn nhọt lâu ngày không có đầu: Ma hoàng 2g, Thục địa 40g, Bạch giới tử (sao, tán nhuyễn) 8g, Bào khương (tro) 2g, Cam thảo, Nhục quế đều 4g, Lộc giác giao 12g. Sắc uống (Dương Hòa Thang – Ngoại Khoa Toàn Sinh Tập).
+ Trị tửu tra tỵ: Ma hoàng, Ma hoàng căn đều 60g, Rượu tốt 5 hồ (bình nhỏ), cho thuốc vào chưng khoảng 3 nén nhang (15 phút), phơi sương một đêm. Mỗi buổi sáng và tối uống 1 chén nhỏ (Ma Hoàng Tuyên Phế Tửu – Y Tông Kim Giám)
+ Trị phế quản viêm cấp, phổi viêm, sốt cao không hạ, khát, ho suyễn: Ma hoàng, Hạnh nhân, Cam thảo, bách bộ đều 8g, Thạch cao (sống) 40g, Cát cánh, Hoàng cầm đều 12g. Sắc uống (Ma Hạnh Thạch Cam Thang Gia Vị – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị ho gà kèm đờm nhiệt: Ma hoàng, Hạnh nhân, Thạch cao, Cam thảo, Bách bộ đều 8g, Xuyên bối mẫu 4g. Sắc uống (Ma Hạnh Thạch Cam Thang Gia Vị – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tham khảo:
+ Ma hoàng là thuốc trị chứng thực ở phần Vệ, Quế chi trị chứng hư ở phần Vinh (Bản Kinh).
+ “Muốn phát biểu, dùng Ma hoàng mà không có Thông bạch thì không phát được” (Y Phương Tập Giải).
+ Ma hoàng tính nhẹ, thanh có thể trừ thực chứng, là vị thuốc hàng đầu để [hát tán, nhưng chỉ nên dùng lúc đang mùa đông, bệnh ở phần biểu, đúng là có hàn tà, nhưng cũng không nên dùng nhiều vì mồ hôi là dịch của Tâm, ra nhiều mồ hôi quá thì động đến Tâm huyết mà sinh ra chứng chảy máu cam, thậm chí vong dương, vì vậy, phải cẩn thận (Dược Phẩm Vậng Yếu).
+ Ma hoàng gặp Thạch cao thì phát tán không mạnh Bản Thảo Sơ Chứng).
+ Dùng thuốc phần khí để giúp Ma hoàng thì có thể làm đổ mof hôi ở phần Vệ; Dùng thuốc phần huyết để trợ giúp cho Ma hoàng thì có thể làm đổ mồ hôi ở phần Vinh; Dùng thuốc ôn trợ lực cho dương dược thì có thể trục hết chứng âm hàn ngưng đọng; Dùng thuốc hàn để hỗ trợ âm dược thì có thể giải hết ôn tà, viêm nhiệt (Dược Phẩm Vậng Yếu).
+ Dùng Ma hoàng phải bỏ rễã và đốt đi, vì Ma hoàng là vị thuốc phát hãn, nếu không bỏ rễ hoặc đốt của nó đi thì nó lại có tác dụng cầm mồ hôi. Sắc thuốc có Ma hoàng nên sắc Ma hoàng riêng, khi sôi, bọt nổi lên, vớt bỏ bọt đi, nếu uống phải bọt đó, làm cho người ta khó chịu, bứt rứt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Ma hoàng là vị thuốc phát hãn, tính của nó là tẩu tán nhưng ông Chu Đan Khê vẫn thường dùng Sâm tốt để làm sứ cho nó, trị được những chứng Biểu thực mà mồ hôi không ra được. Cho uống một nước đã thấy công hiệu thì thôi ngay, không nên uống nhiều, làm cho mồ hôi ra quá hoặc có thể bị chảy máu cam, hoặc vong dương mà chết (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Ma hoàng hợp với Quế chi có tác dụng phát hãn, là thuốc tân ôn giải biểu, thích hợp với người bị thương hàn thực chứng ở biểu, không ra mồ hôi, bêïnh thuộc kinh Thái dương (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Ma hoàng hợp với Hạnh nhân có tác dụng chỉ suyễn. Nếu kết hợp với Quế chi thì trị suyễn thuộc hàn; Hợp với Thạch cao thì trị suyễn thuộc Phế nhiệt (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Ma hoàng hợp với Cam thảo, uống nguội, có thể trị thủy thủng bế tắc ở Phế (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Ma hoàng cùng gĩa với Thục địa có tác dụng làm tan được hàn kết ở phần âm, có thể trị các chứng âm thư, trưng hà (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Ma hoàng phát hãn nhiều hoặc ít là do thay đổi liều lượng phối hợp với Quế chi. Lượng Ma hoàng dùng nhiều hơn Quế chi thì sức phát hãn mạnh hơn. Trường hợp cần dùng Ma hoàng để phát hãn mà mồ hôi không ra nhiều, có thể thay đổi tỉ lệ thích hợp giữa Ma hoàng và Quế chi: dùng Ma hoàng bằng Quế chi hoặc Ma hoàng ít hơn, nên cân nhắc để quyết định (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Muốn phát hãn thì dùng cọng Ma hoàng, muốn chỉ hãn thì dùng rễ Ma hoàng. Ma hoàng bỏ đốt đi, gọi là Tịnh Ma hoàng, sức phát hãn tương đối mạnh. Ma hoàng không bỏ đốt thì sức phát hãn hơi yếu. Ma hoàng chích mật, dược tính tương đối hòa hoãn. Ma hoàng nhung là Ma hoàng gĩa nát như nhung, sức phát hãn càng hòa hoãn (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Các chất trong khổ qua có tác dụng sinh học giống như insulin và kích thích tuyến tuỵ tăng cường tiết insulin theo nhu cầu của cơ thể.


Khổ qua (mướp đắng) được cho là một dược thiện giúp ngăn ngừa và trị tiểu đường. Sở dĩ nói như vậy là vì trong khổ qua có những thành phần giúp cơ thể ức chế sự chuyển hoá và hấp thu đường, ngăn ngừa căn bệnh đái tháo đường và ổn định đường huyết ở người tiểu đường.
Công năng đặc biệt: Kiện tì
Khổ qua có tác dụng thanh nhiệt tả hoả, giải độc, dùng trong các trường hợp trúng nắng, sốt nóng mất nước, hội chứng lỵ, viêm nhiễm đường sinh dục, tiết niệu, mụn nhọt, viêm kết mạc cấp tính và mãn tính. Ngoài ra, khổ qua còn có tác dụng thường xuyên giúp tinh thần thư thái, an thần, giảm stress, giúp da dẻ mịn màng, ngăn ngừa và chữa các căn bệnh về da. Đặc biệt công năng kiện tì, thúc đẩy chuyển hoá của chất trong khổ qua giúp cơ thể ức chế sự chuyển hoá và hấp thu đường trong cơ thể, ngăn ngừa căn bệnh đái tháo đường và ổn định đường huyết ở người tiểu đường.
Dưới nhãn quan y học hiện đại, khổ qua là thảo dược có tác dụng diệt vi khuẩn và virus, chống lại gốc tự do, trẻ hoá tế bào và có tác dụng tích cực trong phòng và chống ung thư, làm hạn chế bớt tác hại của tia xạ trên bệnh nhân ung thư. Khổ qua còn góp phần to lớn trong phòng, trị các bệnh như: tim mạch, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, tổn thương thần kinh, viêm đường tiết niệu, tiểu đường, với cơ chế ngăn chặn sự hấp thu glucose vào tế bào và ức chế các men tổng hợp lên glucose. Các chất có trong khổ qua có tác dụng sinh học giống như insulin và kích thích tuyến tuỵ tăng cường tiết insulin theo nhu cầu của cơ thể…
Phụ nữ mang thai nên tránh
Theo nghiên cứu của các chuyên gia nội tiết và các nhà khoa học ở Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan (Úc) và Viện Y dược Thượng Hải (Trung Quốc) cho thấy các chất charantin, polypeptid-P và vicine trong khổ qua có tác dụng tương đương insulin và có vai trò giảm đường huyết, cải thiện và ức chế dung nạp đường của tế bào, từ đó ổn định đường huyết và ngăn chặn sự phát triển, biến chứng của tiểu đường. Nghiên cứu đã được các nhà khoa học áp dụng thành công trên chuột thực nghiệm và thu được kết quả cao trong nhóm người tiểu đường tuýp 2.
Tuy khổ qua là dược thiện có nhiều công năng, tác dụng nhưng là thực phẩm có tính hàn nên những người tì, vị hư hàn (ăn uống khó tiêu, đầy bụng, ấm ách, đi tả) không nên dùng. Hơn nữa, đây là một thảo dược có tính hàn nên không dùng kết hợp với huyền sâm hoặc chế phẩm có huyền sâm. Do đặc tính hoạt huyết của khổ qua nên thầy thuốc khuyến cáo không dùng cho phụ nữ mang thai bởi khổ qua đã làm xuất huyết tử cung và làm sẩy thai ở chuột thực nghiệm./.
Dược thiện từ khổ qua
Nguyên liệu gồm 150 g nấm hương, 200 g đậu ván trắng, 100 g khổ qua. Trước tiên, cho đậu ván trắng vào nấu, khi chín thì cho nấm và khổ qua vào nấu tiếp, nêm gia vị vừa ăn. Đây là bài thuốc có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, hạ đường huyết. Thích dụng cho những người tiểu đường, ăn uống không ngon miệng, gầy sút, ăn uống khó hấp thu, thường xuyên đi tiêu phân sống.
Bài thuốc này có thể ăn thường xuyên hàng ngày với cơm hoặc có thể nấu cháo ăn hàng ngày thay cơm đối với bệnh nhân tiểu đường.

Có hai loại bí đao phổ biến là bí đao đá (vỏ dày cứng và nhẵn, quả dài và ít ruột) và bí đao phấn (vỏ có sáp trắng, quả to và nhiều ruột).


Theo đông y, bí đao không chỉ là thực phẩm dễ chế biến, mùi vị dễ ăn mà còn có nhiều tác dụng như một dược liệu. Hoa bí đao thanh nhiệt, có beta-caroten, dẫn chất acid gallic, vitamin C và kali nên có tính chống ôxy hoá, chống lão hoá. Đem hoa bí đao luộc chấm với mè đen ăn sẽ tác dụng trị táo bón, âm hư, khô cổ, khan tiếng. Trái bí đao luộc chấm mè đen là bài thuốc bổ âm, nhuận trường, sinh tân dịch, rất tốt cho người bệnh cao huyết áp, đái tháo đường, bệnh tim mạch. Bí đao có khả năng sinh nhiệt thấp nên cũng dùng rất tốt cho người muốn giảm cân.
Bí đao nấu canh với tôm là món ăn có tính thanh nhiệt, bí đao xào trứng là món ăn bổ dưỡng tốt cho người bệnh đái tháo đường, canh cá chép nấu với bí đao và hành củ được trị phù thũng; nhiều nơi kinh nghiệm dân gian còn dùng dây bí đao giã vắt nước gây nôn, trị ngộ độc nấm hoang rất hiệu quả./.

Nhân dân ta từ xa xưa đã ăn và dùng trứng kiến chữa bệnh, song mãi đến ngày nay mới biết được đến tính chất khoa học của nó, do các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu trong phòng thí nghiệm… và nay đã triển khai thành một sản phẩm “công nghệ cao”.


Tài liệu của Danh y Tuệ tĩnh có ghi: “Loài kiến có tác dụng chữa viêm tai, suy giảm chức năng sinh dục, giải độc điều trị rắn cắn”. Các nhà khoa học Viện Hóa học, thuộc Viên Khoa học Công nghệ Việt Nam và các nhà khoa học Viện Sinh dược và Công nghệ sinh học và Viện phân tích sinh học của CHLB Đức, đã hợp tác nghiên cứu trứng kiến gai đen.
Trứng loài kiến gai đen giàu giá trị dinh dưỡng.
Nghiên cứu chỉ ra rằng, trứng kiến gai đen có chứa 31 nguyên tố vi lượng cùng các vitamin A, D,E, B1, B2, B12. Giá trị dinh dưỡng của trứng kiến gai đen rất cao, riêng chất đạm chiếm tới 42 – 67%, bao gồm 17 axit amin trong đó 8 axit xmin không thay thế được. Đặc biệt trong trứng kiến còn có Trytophan là một axit amin thiết yếu của cơ thể con người, thành phần để tổng hợp protein đồng thời là chất trung gian truyền dẫn các tín hiệu thần kinh trung ương. Chính chất này làm nên những “điều kỳ diệu” cho những sản phẩm đi từ trứng kiến gai đen.
Với thành phần nêu trên có thể hiểu được tác dụng bổ dưỡng và điều trị của trứng kiến.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Vân Thái, Bệnh viện Y học cổ truyền trung ương cho hay: “Trứng kiến dùng để bổ khí lực rất tốt. Một số nước dùng để bổ trợ điều trị chứng suy giảm sinh dục nam giới”.
Nghiên cứu đã chỉ ra chất histidin là tiền chất của histamine, chất cực kỳ quan trọng đối với tuyến tiền liệt, làm tăng hooc môn sinh dục nam.
Còn theo tiến sĩ Dương Ngọc Tú, phó Trưởng phòng sinh dược Viện hóa, từ xưa y học đã sử dụng trứng kiến gai đen làm thuốc. Ngoài ra, loại trứng này còn được sử dụng làm thực phẩm cung cấp đạm và chất dinh dưỡng cho con người.
Có thể kể ra tác dụng của các axit amin có trong trứng kiến gai đen như sau: Acginin là chất giúp quá trình sản xuất insulin, chuyển hóa lipit trong gan, nâng cao hệ thống miễn dịch có khả năng kích thích tuyến ức và làm tăng hoạt động của tế bào limpho T trong hệ miễn dịch, nên nó chống lại vi rút, vi khuẩn, trung hòa amoniac giúp quá trình giai độc nhanh.
Prolin làm chắc khớp, dây chằng, mô liên kết và sụn, Threonin ngăn chặn sự mỡ hóa gan, là nguồn năng lượng cho mô cơ, não bộ và hệ thống thần kinh trung ương, giúp sản xuất kháng thể để tạo cho hệ thống miễn dịch hoạt động tốt…
Thấy được tính chất của trứng kiến đen quý đến như vậy, các nhà nghiên cứu Viện Hóa học mới thấy cái sâu sắc của Y học cổ truyền và biết hướng đi của mình là chọn đúng. Họ đi sâu và việc tách tinh chất từ trứng kiến để tăng giá trị sử dụng trong y học.
Năm 2006, hai sản phẩm đầu tiên ra đời, đó là cao trứng kiến và rượu trứng kiến.
Cao trứng kiến làm thực phẩm bổ dưỡng cho trẻ em và người mới ốm dậy cần phục hồi sức khỏe, cũng như cung cấp cho các vận động viên trong luyện tập, thi đấu. Rượu trứng kiến R.T.K dùng cho người cao tuổi để phòng tránh những bệnh đặc trưng của người già, như hay quên, gân cốt yếu,… Công nghệ xử lý và chế biến được xác lập.
Trong những năng 2006 – 2008, đề tài được mở rộng với sự tham gia của Hội Hóa học và tiếp tục hợp tác với CHLB Đức. Các nhà khoa học đã cải tiến công nghệ thủy phân trứng kiến để tách các axit amin từ phương pháp sử dụng nhiệt độ cao, môi trường axit thành phương pháp dùng enzim nên đã tránh được sự phân hủy và giữ được gần như nguyên vẹn các axit amin rất quý này.
Nhờ đó đã điều chế được một sản phẩm mới dưới dạng bột mang tên BROCUMARA T-K. Sản phẩm được thử nghiệm lâm sàng tại bệnh viện và đã được Bộ Y tế cấp giấy phép.
Tuy nhiên bước chuyển biến lớn nhất chỉ xảy ra khi Viện Hóa học thành lập Công ty cổ phần công nghệ cao Việt Đức để triển khai đề tài vào sản xuất quy mô lớn. Công ty đã xác định quy trình công nghệ, đầu tư đồng bộ thiết bị chuyên dụng hiện đại và cơ sở hạ tầng, ổn định nguồn nguyên liệu để tổ chức sản xuất thử nghiệm TRYTOKC ra đời, dưới dạng viên nang từ một công nghệ tiên tiến và chất lượng đảm bảo. Đó là một thực phẩm chức năng cao cấp có nhiều công dụng trong việc duy trì và hỗ trợ sức khỏe như giảm stess, hỗ trợ thần kinh và trí nhớ, bổ dương, dưỡng âm, chống lão hóa, tăng cường thể lực…
Như vậy, TRYTOKC là một trong không nhiều đề tài nghiên cứu đã vượt được những bức tường của phòng nghiên cứu cơ bản, để trở thành một sản phẩm mà xã hội có nhu cầu, mang lại lợi ích thiết thực trong cuộc sống.

Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

Trầm hương


I. “Ngậm ngải tìm trầm” đó là câu nói của người xưa để miêu tả sự gian lao, khắc ngiệt của những người thợ rừng trên đường đi tìm trầm hương. Trầm hương là do cây dó bầu sinh ra, sự hình thành trầm hương của các cây dó cũng rất đặc biệt. Dân gian truyền rằng, hương trời bay theo gió đáp vào chỗ bị thương trên thân cây, lâu ngày, cây thấm hương trời biến thành trầm hương. Khi cây bị thương, chất dầu trong cây tụ lại để kháng cự sự phá hoại nhiễm bệnh từ bên ngoài, chất dầu đọng lại đó dần dần biến tính và thành trầm. Những cây dó có trầm thường bị xơ xác và thân có u, bướu, bị sâu đục, gò mối đóng, mảnh bom đạn găm vào, cây bị giông gió làm gãy cành hay bị sét đánh.


Đó là nói theo dân gian. Còn theo khoa học thì sao?
Khoa học đã khẳng định, như trong dân gian nhận thức, trầm hương và kỳ nam là phần gỗ chứa nhiều nhựa thơm sinh ra từ thân cây dó mọc nhiều trong những cánh rừng già của Việt Nam. Những cây dó có thể sống lâu và phát triển to lớn thành cổ thụ. Chỉ có dó bầu mới cho trầm tốt và kỳ nam.
Vì những giá trị dược liệu quý hiếm, nên kỳ nam thường rất đắt. Do vậy, để đánh giá các hạng kỳ nam khác nhau, dân gian đã đúc kết thanh kinh nghiệm: “nhất bạch, nhì thanh, tam huỳnh, tứ hắc”. Còn trầm thì được phân thành 4 loại: trầm mắt kiến có lỗ, có hang do kiến đục làm tổ trước khi cây thành trầm; trầm rễ do rễ cây sinh ra; trầm mắt tử kết tạo trên nhánh cây và cuối cùng là trầm tốc ở trên thân cây (loại trầm có nhiều nhất và phổ biến nhất trên thị trường). Ngoài ra, người ta con có thể phân biệt kỳ tốt hay kỳ xấu bằng những cảm nhận sau: loại nào nhuyễn mịn và có nhiều chất dầu là tốt nhất, còn loại nào rắn chắc là xấu.
II. Ngày Tết ngoài nhang thẻ, nhang bó, nhang vòng, những nhà khá giả còn thắp trầm hương.
Trầm hương là khí anh tú tụ vào cây gió sống lâu năm nơi non cao rừng rậm.
Khí anh tú kết tinh trong cây gió, gọi chung là trầm hương nhưng sự thật có hai thứ là Trầm và Kỳ.
Trầm tức là trầm hương, kỳ tức là kỳ nam. kỳ nam là thứ trầm có nhiều dầu, còn trầm là thứ kỳ có ít dầu. Trong những cây gió có trầm thỉnh thoảng vẫn có kỳ, và trong những cây gió có kỳ thì trầm luôn luôn bao chung quanh hoặc ở bên cạnh. Thường thường kỳ ít có, và khi có cũng có ít hơn trầm.
Kỳ và trầm phân biệt nhau ở hình chất và khí vị.
- Trầm chất cứng và nặng, màu hơi vàng, vị đắng. Kỳ nhẹ và mềm, màu đen, vị lại đủ cay chua ngọt đắng.
- Trầm mùi ngát, kỳ mùi thanh. Khói trầm bay vòng quanh rồi tan ra, khói kỳ bay thẳng và bay vút.
Ðược tánh đôi bên cũng có chỗ khác nhau.
- Trầm dùng giáng khí, tức là đem khí hạ xuống.
- Kỳ dùng trị các chứng phong đàm, mài với nước mà uống, hay đốt xông vào lỗ mũi. Trị các chứng đau bụng cũng rất hay, chỉ ngậm trong miệng cho tiêu rồi nuốt. Nhiều khi hiệu nghiệm như thần. Trầm và kỳ còn đuổi được tà khí độc, khí ô uế. Trầm thì đốt lên, kỳ chỉ đeo vào mình cũng đủ.
- Kỳ có 4 thứ: Giá trị phân định rõ ràng trong câu ngạn ngữ “nhất bạch, nhì thanh, tam huỳnh, tứ hắc”.
- Bạch kỳ nam sắc trắng, chất mềm và rất nhiều dầu.
- Thanh kỳ nam, màu hơi xanh, nhiều dầu thì mềm, ít dầu thì cứng.
- Huỳnh kỳ nam, màu vàng như sáp ong, chất cứng và nặng, để lâu khô dầu trở nên nhẹ.
- Hắc kỳ nam, mùa đen chất cứng. Nhưng chỗ nhiều dầu lại mềm như bạch kỳ nam. Kỳ nam thường dùng làm thuốc, giá rất đắt.
Trầm chia làm 4 loại:
- Trầm mắt kiến, có lổ có hang do kiến đục làm tổ trước khi cây thành trầm.
- Trầm rễ do rễ cây sanh ra.
- Trầm mắt tử kết tạo trên nhánh cây.
- Trầm tốc ở nơi thân cây.
Trầm tốc có nhiều nhất và trên thị trường chia ra làm nhiều thứ giá bán khác nhau.
- Tốc hoa màu vàng lạt, có những chấm lốm đốm như hoa.
- Tốc nước, màu vàng lợt, chất ươn ướt và nặng.
- Tốc xám, màu xam xám như tro.
- Tốc lọ nghẹ, màu đen đen như bồ hóng.
- Tốc đá, nặng và trông hình sắc như đá.
- Tốc ớt, sắc vàng lợt, vị cay như ớt xiêm.
- Tốc hương, sắc vàng lợt, hương đượm, thường bao chung quanh kỳ nam, cho nên có nhiều điểm, nhiều gân kỳ nam lẫn vào. Nếu dầu nhiều thêm thì tốc ký trở thành kỳ.
Trầm là lâm sản quý nhất ở Khánh Hòa. Ðối với Trầm Khánh Hòa lại có một thứ hải sản cũng quý như trầm đó là yến sào. Hai thứ sản vật quý giá này thường đi đối với nhau.
Chẳng những đi đôi với nhau, trầm hương và yến sào lại quấn quýt với nhau tạo cho người Khánh Hòa một tinh thần thanh cao, một tấm lòng chung thủy.
Có dịp sẽ nói kỹ về yến sào. Ở Khánh Hòa dù là nơi sản xuất nhiều yến sào nhưng ít nhà dùng yến sào để ăn Tết. Còn trầm hương thì không nhà nào, lúc giao thừa hay sáng mùng một mà không có một lư trầm tỏa hương nơi bàn thờ Tổ Tiên, nơi bàn thờ Phật Thánh.
Cho nên các cụ ngày xưa thường bảo con cháu:
Xuân về thắm đủ trăm hoa
Mùi trầm hương thiếu vẫn là chưa xuân.

Bách bộ

Bách bộ còn gọi là củ ba mươi, dây dẹt ác, mằn sòi (Tày), mùi sấy dòi (Dao), hơ linh (Ba na). Tên khoa học: Stemona tuberosa Lour. Bách bộ là cây mọc hoang ở khắp nơi. Bộ phận dùng làm thuốc là rễ củ ở dưới đất, đã phơi hay sấy khô. Theo Đông y, bách bộ vị ngọt, đắng, tính hơi ôn. Vào kinh phế, có tác dụng nhuận phổi, chữa ho; ngoài ra, có tác dụng tẩy giun, trừ sâu bọ, chấy rận. Liều dùng: 8 – 20g.


Một số cách dùng bách bộ làm thuốc:
Nhuận phổi, chữa ho: Dùng cho lao phổi, ho lâu ngày, sốt hâm hấp buổi chiều, viêm phế quản, ho gà.
- Bách bộ tươi 1kg, bỏ vỏ, bỏ lõi, giã nát, vắt lấy nước cốt, bỏ bã, thêm mật vào thắng để cô thành cao. Mỗi lần uống 1 muỗng, ngày uống 3 lần. Chữa chứng ho lâu năm.
- Bách bộ 40g, thiên môn 40g, mạch môn 40g, bạch mai 3 quả, tang bạch bì 20g. Dùng một chén nước cốt gừng tươi, hòa với mật ong, luyện làm viên bằng hạt nhãn. Mỗi lần ngậm 1 viên. Chữa ho lâu năm, phiền nhiệt dần thành ho lao.
- Bách bộ 16g, kinh giới 12g, bạch tiền 12g, cát cánh 12g. Sắc uống. Chữa cảm mạo gây ho, ngứa họng, có ít đờm.
- Bách bộ 16g, hoàng cầm 12g, đan sâm 12g, đào nhân 12g. Sắc uống ngày một thang, uống liền trong 2 – 3 tháng. Chữa lao phổi. Có thể dùng bách bộ 12g, sắc lấy nước, thêm bột bạch cập 12g, uống.
- Bách bộ 1.000g, sa sâm 1.000g, sắc với 5.000ml nước, bỏ bã, cô đặc thêm 1.000g mật ong, cô nhỏ lửa thành cao. Mỗi lần uống 1 thìa canh, ngày 2 lần. Chữa ho do lao phổi và ho do phổi nóng (phế nhiệt).
- Bách bộ 20g, ma hoàng 8g, tỏi 1 củ, rễ cây bông 3 cái. Sắc uống. Chữa viêm phế quản mạn tính sinh ho, hen suyễn.
Tẩy giun, trừ chấy rận, chữa ngứa:
- Bách bộ, binh lang, sử quân tử, liều lượng bằng nhau, nghiền thành bột, hòa với dầu bôi chung quanh hậu môn. Trị giun kim.
- Bách bộ 63g sắc lấy nước, cô còn 20ml nước đặc thụt rửa vào buổi chiều. Làm liền 2 – 3 tối.
- Bách bộ 200g, rượu cao độ 1.000ml ngâm trong 24 giờ, lấy dung dịch rượu bôi vào chỗ bị chấy rận.
- Bách bộ giã nát, xoa vào chỗ mẩn ngứa, muỗi đốt, viêm da, sâu bọ đốt.
- Bách bộ 20g, khổ sâm 12g, bằng sa 8g, hùng hoàng 8g. Sắc đặc, bôi rửa chỗ bị phát ban.
Diệt côn trùng: Nước sắc bách bộ, thêm ít đường mật để diệt ruồi. Dung dịch 1/20 làm chết hết bọ gậy. Rắc bột bách bộ vào hố phân sẽ giết chết dòi bọ.
Kiêng kỵ: Bách bộ dễ hại dạ dày, dễ gây tiêu chảy nên người yếu dạ, hay tiêu chảy không được uống. Không dùng cho người tỳ vị dương hư. Bách bộ ở liều cao dễ ức chế trung tâm hô hấp, có thể gây tử vong.

Cây Ý dĩ


Ý dĩ, là nhân quả cây Ý dĩ. Để có ý dĩ làm thuốc, người ta thu hoạch quả chín, phơi khô, xay xát, sàng sẩy lấy nhân hạt. Có thể dùng sống (để trừ thấp), hoặc sao hơi vàng hoặc sao vàng (để kiện tỳ). Ý dĩ, chứa nhiều chất bổ như: tinh bột, protein, lipid, các acid amin…


Theo YHCT, ý dĩ có vị ngọt, nhạt, tính hơi hàn. Quy vào các kinh tỳ, vị, can, phế, đại tràng. Có  công năng lợi thủy, kiện tỳ hóa thấp, trừ phong thấp, thanh nhiệt độc, trừ mủ, thư cân, giải kinh, giải độc. Do đó, vị thuốc được vận dụng trong YHCT để điều trị nhiều chứng bệnh khác nhau:
Trị tiểu đường: Ý dĩ, rễ cỏ tranh, trạch tả, mỗi vị 30g. Sắc uống. Dùng hằng ngày hoặc ý dĩ, sa sâm, thiên môn, mạch môn, hoài sơn, bạch biển đậu, mỗi vị 12g, liên tâm 8g,  thạch cao 20g . Nếu khát nhiều thêm tang bạch bì, thiên hoa phấn, mỗi vị 8g, nếu tiểu nhiều thêm kỷ tử, thạch hộc, mỗi vị 8g. Ngày 1 thang, dưới dạng thuốc sắc. Dùng nhiều ngày tới khi các triệu chứng thuyên giảm.
Tăng tiết sữa, và làm tốt sữa của phụ nữ sau sinh:
Ý dĩ sống 50g, móng giò lợn 1 cái, hầm nhừ. Ăn ngày một lần. Một tuần ăn 2-3 lần.
Trị phù thũng, tiểu tiện khó khăn, tiểu ra cặn sỏi, tiểu buốt, rắt: dùng ý dĩ sống, ngày  20-50g, nấu dưới dạng cháo loãng ăn; có thể dùng lá hoặc rễ ý dĩ, mỗi ngày 20-40g dưới dạng thuốc sắc, có thể thêm râu ngô, mã đề (bông, cả cây), đồng lượng 20-40g, sắc uống, ngày 1 thang. Hoặc ý dĩ, đậu đỏ, đông qua bì (vỏ quả bí đao), mỗi vị 30g, hoàng kỳ, phục linh, mỗi vị 15g. Sắc uống, ngày một thang. Uống nhiều ngày tới khi hết các triệu chứng.
Trị ho: Ý dĩ 12g, trần bì, chỉ xác , hạnh nhân, tô ngạnh, bạch truật, sinh khương, mỗi vị 4g, bán hạ (chế) 6g, phục linh 8g. Sắc uống, ngày một thang, uống sau bữa ăn 1-1giờ rưỡi.
Trị chứng tỳ hư, tiêu hóa kém, tiêu chảy, rất tốt cho trẻ em gầy còm, chậm lớn: Ý dĩ, bạch biển đậu, hoài sơn, mỗi vị 40g, sơn tra, sử quân tử (bỏ vỏ lụa), liên nhục, mỗi vị 30g, thần khúc 16g, đương quy 200g, gạo nếp 100g. Tất cả sao vàng. Tán bột mịn. Ngày 2 lần, mỗi lần 12-16g, uống với nước ấm. Trẻ em tùy tuổi, giảm lượng.
Trị phong thấp, đau nhức: Ý dĩ phối hợp với các vị thuốc trừ thấp như uy linh tiên, mộc thông, tang ký sinh, đau xương, thổ phục linh, ngũ gia bì, đồng lượng 10-12g. Sắc uống, ngày một thang. Uống nhiều ngày, tới khi các triệu chứng thuyên giảm.
Thanh nhiệt độc, trừ mủ: Dùng cho những trường hợp  mặt nhiều trứng cá bọc, có mủ, gây đau nhức; Ý dĩ nấu cháo ăn, hoặc phối hợp với bồ công anh, thương nhĩ tử, kim ngân hoa, đồng lượng 10-16g. Sắc uống, ngày 1 thang. Uống nhiều ngày tới khi các triệu chứng thuyên giảm.



Hạ khô thảo tên khoa học: Prunella vulgaris L., họ hoa môi (Lamiaceae). Là loại cây thảo, sống dai, thân hình vuông, màu hơi đỏ tím. Lá mọc đối, hình trứng hay hình mác dài, mép nguyên hoặc hơi có răng cưa. Cụm hoa mọc ở đầu cành gồm nhiều hoa, mọc thành từng vòng, mỗi vòng khoảng 5 – 6 hoa, có cuống ngắn, xếp sít nhau như bông.


Bộ phận dùng: Hạ khô thảo là cụm bông hoa của cây hạ khô thảo (Flos Prunellae cum Fructu). Có thể dùng cả cây làm thuốc, nhưng tác dụng kém hơn chỉ dùng cụm bông hoa.
Tránh nhầm lẫn hạ khô thảo nam là cành mang lá và hoa của cây cải trời (Blumea subcapitata DC.), thuộc họ cúc (Asteraceae). Theo kinh nghiệm dân gian, cây này chữa được nhiều bệnh ngoài da.
Một số đơn thuốc có hạ khô thảo
Thanh hỏa, tán kết:
- Trị lao hạch cổ chưa vỡ, bướu giáp trạng đơn thuần, viêm gan, viêm vú tắc sữa: hạ khô thảo 125 – 250g. Sắc uống hoặc dùng hạ khô thảo nấu cao mà uống.
- Trị lao hạch: hạ khô thảo 12g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang, liên tục 20 – 30 ngày.
- Trị lao hạch, viêm tuyến sữa: hạ khô thảo 20g, huyền sâm 12g, thổ bối mẫu 12g. Sắc uống.
Mát gan, sáng mắt:
- Trị đau nhức mắt do nhiệt ở gan: hạ khô thảo 62,5g, chích thảo 20g, hương phụ tử 62,5g. Tán thành bột. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 12g, uống với nước.
- Trị viêm màng tiếp hợp: hạ khô thảo 62,5g, bồ công anh 62,5g, tang diệp 12g, xa tiền thảo 12g, dã cúc hoa 12g. Sắc uống.
- Trị đau đầu do tăng huyết áp: hạ khô thảo tươi 62g, hy thiêm thảo 62g, dã cúc hoa 62g. Sắc uống.
- Trị tăng huyết áp gây đau đầu, đỏ mặt: hạ khô thảo 20g, cúc hoa 12g, mẫu lệ sống 32g, thạch quyết minh sống 32g, xuyên khung 4g, mạn kinh tử 4g. Sắc uống.
Một số món ăn hỗ trợ điều trị có hạ khô thảo
- Cháo bồ công anh, hạ khô thảo: bồ công anh 30g, hạ khô thảo 20g, gạo tẻ 60g. Sắc hay hãm bồ công anh và hạ khô thảo lấy nước bỏ bã. Lấy nước sắc và gạo nấu cháo, khi ăn cho thêm đường trắng đủ ngọt. Dùng một đợt 3 – 5 ngày. Dùng trong các trường hợp viêm kết giác mạc cấp (đau mắt đỏ), xuất huyết kết giác mạc, mụn nhọt, viêm vú tắc sữa, lao hạch.
- Cháo câu kỷ tử, hạ khô thảo: hạ khô thảo 20g, gạo tẻ 30g, câu kỷ tử 15g. Hạ khô thảo sắc lấy nước, bỏ bã, để riêng. Cho gạo tẻ và kỷ tử vào nấu cháo, khi được cháo, cho nước hạ khô thảo vào sôi đều, ăn ngày 1 lần, liên tục trong 15 ngày. Dùng hỗ trợ điều trị các trường hợp lao       mào tinh hoàn (hay gặp ở thanh niên 20 – 35 tuổi).

Chống sót rét bằng Hải sâm


Hải sâm có thể cung cấp vũ khí hiệu quả để ngăn chặn sự truyền bệnh của ký sinh trùng sốt rét. Đó là kết luận rút ra từ cuộc nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Đại học Hoàng đế London, Anh. Theo Hãng tin BBC, nhóm khoa học gia đã nối một đoạn gien của hải sâm vào gien của muỗi.


Kết quả cho thấy phương pháp trên có thể chống lại một vài loại ký sinh trùng gây bệnh sốt rét bằng cách tạo ra lectin, một chất độc hại đối với ký sinh trùng đang trong giai đoạn đầu, gọi là ookinete. Thông thường, ookinete di chuyển xuyên qua thành bao tử của muỗi và sản xuất hàng ngàn tế bào con, xâm chiếm tuyến nước bọt của muỗi sau đó. Lectin có tác dụng giết chết các ookinete trước khi chúng thực hiện chuyến hành trình chết chóc trên.

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013

Chủ tịch Công ty dược phẩm Labiofam của Cuba, ông Jose Antonio Fraga thông báo: Các nhà khoa học của công ty này đã bào chế thành công một loại thuốc chữa ung thư mang tên “Ecoazul”, với thành phần chủ yếu được chiết xuất từ nọc độc của loài bọ cạp xanh, có tên khoa học là Rhopalurus junceus.


Theo ông Fraga, quá trình thử nghiệm tiền lâm sàng của sản phẩm “Ecoazul” tại các nước như Cuba, Venezuela, Italia, Tây Ban Nha và Pháp đã đem lại kết quả rất khả quan. Sau đó, quá trình thử nghiệm lâm sàng trên 8.000 bệnh nhân cũng cho kết quả tốt.
Nọc của bọ cạp xanh có tính kháng tế bào ung thư và kháng viêm rất cao. Trong năm qua, hàng nghìn bệnh nhân từ nhiều nước trên thế giới đã tới Cuba để được điều trị thử nghiệm “Ecoazul” miễn phí. “Ecoazul” là thuốc uống và trong quá trình thử nghiệm chưa có bất kỳ chống chỉ định nào.
Công ty Labiofam hiện đang xúc tiến các thủ tục đăng ký bản quyền để có thể bán và xuất khẩu sản phẩm “Ecoazul” . Cơ quan kiểm soát dược phẩm của Cuba cũng đã cấp giấy phép lưu hành cho thuốc “Ecoazul”.
Với thành công của sản phẩm “Ecoazul”, công ty Labiofam hiện đã mở rộng các trại nuôi bọ cạp xanh trên khắp đất nước Cuba để tăng sản lượng “Ecoazul”, nhằm đáp ứng nhu cầu điều trị của các bệnh nhân ung thư.
Theo Bee

Những nghiên cứu về nước ép từ quả mãng cầu xiêm cho thấy đây là công cụ chữa ung thư an toàn, hiệu quả và có sẵn. Nó cũng bảo vệ hệ thống miễn dịch, tránh được một số bệnh truyền nhiễm. Ngoài việc chống ung thư, nước ép mãng cầu xiêm còn là tác nhân chống vi khuẩn, nhiễm nấm, chống ký sinh trùng đường ruột và giun sán, hạ thấp huyết áp, chống trầm cảm và những rối loạn tinh thần. Những phần khác của cây cũng rất hữu dụng.


Một nghiên cứu gần đây về nước ép từ quả mãng cầu xiêm cho thấy: Loại nước ép này là 1 liệu pháp chữa ung thư an toàn và hiệu quả, hoàntoàn từ thiên nhiên nên không gây nôn ói, sụt cân và rụng tóc. Bảo vệ hệ thống miễn dịch của bạn, tránh được một số bệnh truyền nhiễm..Giúp bạn thấy mạnh khỏe hơn trong quá trình chữa ung thư hay các bệnh khác. Tăng năng lượng và giúp bạn thấy lạc quan hơn. Thông tin này có làm bạn ngạc nhiên không? Nó đến từ một công ty dược lớn nhất nước Mỹ, và trái mãng cầu xiêm đã là mục tiêu nghiên cứu của hơn 20 phòng thí nghiệm khoa học từ những năm 1970. Nước ép mãng cầu xiêm có khả năng tiêu diệt các tế bào ung thư cao hơn 1000 lần so với liệu pháp hóa trị.Kết quả nghiên cứu về loại quả này được đăng trên tờ Journal of Natural Products do một trường Ðại học ở Hàn Quốc thực hiện. Nhưng tại sao đến bây giờ chúng ta mới biết điều này?Các tập đoàn lớn bỏ ra mấy chục năm nghiên cứu là vì họ muốn tổng hợp nó thành thuốc để thu lợi nhuận…
Bây giờ bạn đã biết điều này thì hãy nói với những người bị ung thư mà bạn biết, và uống loại nước ép này để bảo vệ chính bạn!
* Nước ép này có thể tìm thấy và tiêu diệt các tế bào của 12 loại ung thư.Như là ung thư ruột, ung thư vú, tuyến tiền liệt, phổi và ung thư tuyến tụy… Giúp làm chậm sự phát triển của các tế bào ung thưnhanh gấp 10 000 lần so với Adriamycin (một loại dùng trong liệu pháp hóa trị chữa ung thư).
Nước ép này không hề làm hại gì đến các tế bào khỏe mạnh cả !!!
Theo các kết quả nghiên cứu, nước ép mãng cầu xiêm có thể tầm soát và tiêu diệt có chọn lọc các tế bào ác tính. Nhưng tại sao đến bây giờ chúng ta mới biết về tác dụng “phép lạ” của mãng cầu xiêm trong phòng chống ung thư? Và đã có bao nhiêu người thiệt mạng oan uổng khi công cụ chống ungthư hiệu quả này bị các công ty dược che giấu?
Mãng cầu xiêm thuộc giống cây thân thấp có tên là Graviola ở Brazil, guanabana trong tiếng tây Ban Nha và Soursop trong tiếng Anh. Quả lớn ngọt, có nhiều hột tách ăn dễ dàng và làm nước ép có mùi vị rất ngon. Graviola là sản phẩm tự nhiên nên theo luật liên bang Mỹ không cần có bằng sáng chế. Như thế, làm sao nó có thể mang lại lợi nhuận nếu các con cá mập dược phẩm công bố khả năng trị liệu “phép lạ” của mãng cầu xiêm ra thị trường? Họ chờ cho đến khi chiết xuất được dưỡng chất chống ung thư của Graviola và bào chế được loại thuốc chống ung thư bằng thành phần nhân tạo từ chất này, xin bằng sáng chế và thu lợi. Tiếc thay khả năng chống ung thư của mãng cầu xiêm có ngay trong cây, qủa mà không cần phải chiết xuất gì cả. Vì vậy để bảo vệ khả năng thu lợi của các loại thuốc chống ung thư có sẵn, cách hay nhất là ém đi những nghiên cứu mang tính “cứu mạng” của mãng cầu xiêm, không công bố nó cho dân chúng.
May mắn, có một nhà khoa học bị lương tâm cắn rứt đã làm lộ câu chuyện về “trái cây phép lạ” cho những người có trọng trách trong y tế Mỹ. Khi viện Khoa học Y tế Mỹ nghe tin này, nó bắt đầu truy tìm những công trình nghiên cứu chống ung thư liên quan đến cây Graviola lấy từ khu rùng mưa Amazon của Brazil.
Năm 1976, Viện Ung thư Quốc gia Mỹ tiến hành cuộc nghiên cứu đầu tiên về loại cây này và kết quả cho thấy, lá và thân của Graviola tiêu diệt hữu hiệu các tế bào ác tính. Nhưng nghiên cứu vẫn chỉ được lưu hành nội bộ chứ không công bố ra ngoài. Sau đó 20 nghiên cứu độc lập khác của các công ty dược hay viện nghiên cứu ung thư do chính quyền tài trợ đều cho thấy khả năng trị ung thư của Graviola.Tuy nhiên, vẫn không có ca thử nghiệm nào được tiến hành chính thức tại các bệnh viện. Chỉ đến khi nghiên cứu của Đại học Cơ đốc giáo Hàn Quốc đăng trên tạp san Journal of Natural Products khẳng định một hoá chất trong Graviola đã tiêu diệt các tế nào ung thư ruột nhanh gấp 10.000 lần hoá chất Adriamycin thường dùng trong hoá trị ung thư người ta mới vỡ lẽ. không gây nôn ói, sụt cân và rụng tóc. Điều quan trọng là không như các hoá chất điều trị ung thư khác, Graviola và nước ép mãng cầu xiêm không hề làm hại gì cho các tế bào khỏe mạnh và không có tác dụng phụ. Người bệnh thấy mạnh khỏe hơn trong quá trình chữa ung thư và các bệnh khác; năng lượng được tăng cường và sống lạc quan hơn. Một nghiên cứu tại Đại học Purdue University sau đó cũng phát hiện ra lá mãng cầu xiêm có khả năng giết các tế bào ác tính của nhiều loại ung thư khác nhau như ung thư ruột, ung thư vú, tuyến tiền liệt, phổi và tuyến tụy. 7 năm im lặng bị phá vỡ. Sự thật được phô bày. Hiện mãng cầu xiêm do thổ dân Brazil trồng hoặc sản phẩm bào chế từ nó đã có mặt nhiều ở Mỹ như một công cụ điều trị và ngăn ngừa ung thư. Một báo cáo đặc biệt có tên Beyond Chemotherapy: New Cancer Killers, Safe as Mother’s Milk, do Viện Khoa học Y tế Mỹ công bố về Graviola đã xem loại cây này là “công cụ cách mạng hoá” chống ung thư.
Vì vậy, nếu nhà bạn có vườn rộng và thổ nhưỡng thích hợp, bạn nên trồng một cây mãng cầu xiêm trong sân. Nó sẽ có ích rất nhiều cho bạn và gia đình bạn.

Đậu bắp còn là mỹ phẩm giúp đẹp da, mượt tóc, giữ vẻ trẻ trung cho đôi mắt.
Đậu bắp có mặt trong nhiều món ăn, từ chay đến mặn và cả làm “mồi” nhậu cho quý ông. Nếu nhìn ở khía cạnh món ăn bài thuốc, đậu bắp có khá nhiều công dụng.

Đậu bắp chứa nhiều acid folic, đây là món thai phụ nên dùng để phòng ngừa khuyết tật ống thần kinh cho thai nhi. Bà bầu nên chọn các món ăn với đậu bắp nhưng phong phú về nguyên liệu như: canh chua có nguyên liệu đậu bắp, đậu bắp xào tôm, đậu bắp tẩm bột chiên giòn ăn với rau xà lách, lẩu ăn với đậu bắp… Đậu bắp còn được xem như mỹ phẩm giúp đẹp da, mượt tóc, giữ vẻ trẻ trung cho đôi mắt, tăng cường sức khỏe nhờ bên trong thân hình “nhỏ con” chứa nhiều vitamin A, vitamin C, calci, kali, magiê. Để đạt được công dụng làm đẹp, cần ăn các món hơi “mầu mỡ” một chút như: đậu bắp hấp mỡ hành, đậu bắp xào, đậu bắp hấp chấm kho quẹt…


Theo lương y Đinh Công Bảy – Hội Dược liệu TP.HCM thì những người bị tiểu đường, mỡ trong máu cao nên thường xuyên dùng đậu bắp. Chất xơ trong đậu bắp giúp giảm lượng mỡ trong hệ thống ống tiêu hóa, giúp đường hấp thu vào máu chậm. Như vậy, để đậu bắp có thể “hoàn thành nhiệm vụ”, những ai có mỡ trong máu, tiểu đường cần ăn đậu bắp luộc, hấp; không ăn đậu bắp tẩm bột chiên giòn, đậu bắp xào. Nước đậu bắp luộc dùng để uống cũng có công dụng tương tự.
Đậu bắp chứa nhiều chất xơ. Trái đậu bắp khi cắt ra khá nhớt, phần nhớt đó chứa xơ dạng hòa tan, còn “thân hình” và hạt đậu bắp chứa xơ không hòa tan. Các nhà khoa học sau khi “cân đo” đã cho đáp số: một chén đậu bắp nấu chín có thể cung cấp khoảng 4g chất xơ. Vì vậy, khi ăn các món nướng như: sườn nướng, xúc xích nướng, nên tiện tay nướng thêm ít trái đậu bắp ăn kèm, vừa ngon miệng, không ngán, lại giúp cho việc tiêu hóa thuận lợi. Những ai thường xuyên bị táo bón nên dùng thử đậu bắp. Sau khi dùng khoảng 2 ngày sẽ thấy hiệu quả. Tuy nhiên, để loại trừ táo bón, không nên “ưu ái” một mình đậu bắp mà nên ăn thay đổi cùng các món nhuận tràng khác như: khoai lang, đu đủ, bí đỏ, chuối, thanh long…
Bên cạnh làm “phụ tá” đắc lực cho hệ tiêu hóa, chất xơ trong đậu bắp còn giúp giảm cân nhờ sinh ít năng lượng (một chén đậu bắp chứa khoảng 30kcal). Vì vậy, những ai đang “lên lịch” giảm cân nên đưa đậu bắp vào danh sách các món ăn. Tốt nhất là dùng một chén đậu bắp hấp chấm chao hoặc kho quẹt trước khi dùng cơm. Điều cần nhớ khi chế biến các món đậu bắp là chỉ nấu chín tới, không để quá lâu vì có thể mất hết sinh tố. Đậu bắp là món ăn sống ngon không kém ăn chín, song khi mua nên chọn đậu bắp nhỏ, có bề mặt mịn màng, không tì vết, ăn sẽ ngon hơn và giàu dinh dưỡng hơn loại đậu bắp lớn. Nhớ rửa sạch vì lông tơ trên vỏ đậu bắp khiến thuốc trừ sâu dễ bám. Để có rau sạch, nên trồng đậu bắp, vì đây là cây dễ trồng, sống được ở những nơi nắng gắt, đất không màu mỡ, rất sai trái.
Bên cạnh những công dụng có lợi nêu trên, “khuyết điểm” của đậu bắp là làm “lạnh” bụng. Những ai hay bị đau bụng, rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy, không nên dùng loại rau này.

Không chỉ là đồ uống giải nhiệt, nâng cao hương vị cuộc sống, trà xanh còn có thể kết hợp với các nguyên liệu khác nhau tạo thành những bài thuốc có tác dụng phòng và chữa bệnh hiệu quả.


Dưới đây là một số loại trà thuốc vừa đơn giản, dễ chế biến nhưng lại có công hiệu đáng ngạc nhiên.
1. Trà giấm
Cách làm: Lấy 5g lá chè xanh rửa sạch, sau đó cho vào hãm cùng 1ml giấm ăn khoảng 5 phút, uống nóng sau bữa ăn.
Công dụng: điều hòa dạ dày, tránh gây ợ chua khó chịu, trị kiết lị, máu đóng cục, đau răng, và có tác dụng giảm đau hiệu quả.
2. Trà đường
Cách làm: Lấy 2g lá chè xanh, 10g đường đỏ hãm ấm trà khoảng 5 phút, uống sau bữa ăn.
Công dụng: Bổ khí, trị tiêu hóa kém, khó đại tiện, lưu thông khí huyết, điều hòa kinh nguyệt, chữa bế kinh hoặc rối loạn kinh nguyệt.
3. Trà muối
Cách làm: Lấy 3g lá chè tươi (hoặc lá trà khô), 1g muối ăn hãm trong nước sôi khoảng 7 phút, uống sau mỗi bữa ăn.
Công dụng: Tiêu viêm, sáng mắt, thanh nhiệt, tốt cho cổ họng, trị ho nhẹ, vết thương nhiễm trùng, đau họng, viêm chân răng, đau mắt đỏ…
Nên thường xuyên uống loại trà này về mùa hè để đề phòng chứng rối loạn điện giải vì mất nước do ra mồ hôi quá nhiều. Những đối tượng như dân văn phòng, người huyết áp cao, ít ra mồ hôi nên hạn chế dùng loại trà thuốc này.
4. Trà mật ong
Cách làm: Lấy 3g lá chè, 5ml mật ong cho vào nước nóng hãm khoảng 5 phút, uống nóng ngay sau bữa ăn.
Công dụng: Giải nhiệt, dưỡng huyết, nhuận phổi lợi thận, trị chứng suy nhược thần kinh, suy giảm chức năng dạ dày, viêm lợi, viêm chân răng.
Trà chanh mật ong
5. Trà sữa
Cách làm: Sau khi hãm ấm trà nóng, cho thêm chút sữa tươi, tỷ lệ 2 trà, 1 sữa rồi uống nóng.
Công dụng: bổ tỳ, lợi vị, mắt sáng, thích hợp cho những người có thể chất yếu, tiêu hóa không tốt, mắc các bệnh mãn tính khó chữa.
6. Trà hoa cúc
Cách làm: Lấy 2g lá trà, 2g hoa cúc trắng hãm với nước sôi, uống nguội.
Công dụng: Bổ gan, sáng mắt, thanh nhiệt giải độc, chống lão hóa, tăng huyết áp, chữa đau đầu, ho và đau họng hiệu quả.
7. Trà táo đỏ
Cách làm: Cho 5g lá chè hãm cùng với khoảng 10 quả táo đỏ trong vòng 7 phút, uống nóng sau bữa ăn.
Công dụng: Bổ tỳ, lợi khí, trị chứng đi tiểu nhiều ban đêm, không có cảm giác thèm ăn, ăn kém, khó chịu trong người.
8. Trà vỏ quýt
Cách làm: Vỏ quýt thái lát mỏng phơi khô. Lấy 3-6g vỏ quýt khô, 5g lá trà xanh hãm nước nóng khoảng 20 phút, có thể uống khi nào tùy thích hoặc uống thay nước.
Công dụng: Nhuận phổi, tiêu đờn, trị ho, viêm họng hiệu quả.
9. Trà tỏi
Cách làm: Lấy 1 củ tỏi giã nhuyễn, 60g trà hãm với nước sôi để uống cả ngày, uống liên tục trong 7 ngày liên tiếp .
Công dụng: Chữa bệnh ly amip mãn tính, sát khuẩn, thanh nhiệt giải độc, long đờm, ho lâu ngày, đau rát cổ họng.
10. Trà hành
Cách làm: Lấy 10g chè xanh, 10g bạch chỉ và 2-3 nhánh hành tươi cho vào đun sôi, uống nóng.
Công dụng: Chữa cảm cúm hiệu quả. Hành có vị cay, tính bình, không độc. Có tác dụng làm thông dương hoạt huyết, an thai, sáng mắt và bổ ngũ tạng.

Mô tả: Thân giả cao 2-4m, to màu xanh. Lá to, có phiến dài, xanh hơi mốc mốc, be, xanh. Buồng hoa nằm ngang; mo đỏ sẫm, không quấn lên.


Quả có cạnh, thịt quả nạc chứa nhiều hạt to 4-5mm.
Bộ phận dùng: Quả, hạt, củ, thân – Fructus, Rhizoma et Caulis Musae Balbisianeae.
Nơi sống và thu hái: Cây của miền Ðông Dương và Malaixia, thường mọc hoang nơi đất thấp và cũng được trồng lấy lá gói bánh và lấy quả. Có thể thu hái các bộ phận của cây quanh năm.
Tác dụng
Theo kinh nghiệm dân gian, chuối hột trị được nhiều bệnh khá hiệu quả, mà lại không tốn tiền, không độc hại.
Chuối hột giải mọi thứ độc, lương huyết, thoái nhiệt, giải phiền khát, lợi tiểu, tiêu cơm, làm hết đau bụng và sát trùng.
Theo cuốn “450 vị thuốc nam có tên trong bản Dược thảo Trung Quốc” (Nhà xuất bản Y học-1963) thì lá và vỏ quả chuối hột khô sắc uống làm thuốc lợi tiểu và chữa được chứng phù thũng sưng chân (cước khí). Rễ sắc uống chữa cảm mạo, bệnh dạ dày, đau bụng, chữa cả chứng tiêu khát và bệnh lâm lậu. Theo kinh nghiệm dân gian người ta dùng chuối hột trị được nhiều bệnh khá hiệu quả, mà lại không tốn tiền, không độc hại.
Ngoài việc dùng nước sắc quả chuối hột chữa bệnh đái rắt, lá và vỏ quả chuối khô làm thuốc lợi tiểu chữa phù thũng (sắc uống) nhưng hay dùng nhất là để điều trị các bệnh sau:
Chữa sỏi thận: Lựa quả chuối hột thật chín, lấy hột phơi khô, tán nhỏ nấu lấy nước uống; cho 7 thìa nhỏ (thìa cà phê) bột hột chuối vào 2 lít nước, đun nhỏ lửa khi còn 2/3 nước là được. Uống hàng ngày như nước trà, uống liền 2-3 tháng cho kết quả khá tốt.
Chữa bệnh đái tháo đường: Đào lấy củ cây chuối hột, rửa sạch, giã nát, ép lấy nước uống, dùng thường xuyên và lâu dài có tác dụng ổn định đường huyết. Vì củ chuối không nhiều và đào củ phức tạp, có thầy thuốc (ở Trung Quốc) đã nghiên cứu cải tiến: cắt ngang cây chuối hột, khoét một lỗ, đậy nilon lên, để nước cây chuối tiết ra đọng vào đó. Lấy nước này cho người bệnh uống. Khi đoạn trên héo thì cắt thấp xuống phía dưới; một cây cắt ngang như thế dùng được nhiều lần. Mùa mưa nước chuối loãng thì uống nhiều hơn mùa nắng. Điều trị theo cách này bệnh cũng thuyên giảm rõ rệt. Hoặc cây chuối có bắp đang nhú, cắt ngang gốc (cách mặt đất khoảng 20cm) lấy dao khoét một lỗ rỗng to ở thân chuối, để một đêm, sáng hôm sau múc nước từ lỗ rỗng (do thân chuối tiết ra) mà uống.
Ngoài ra, quả chuối hột còn xanh được dùng điều trị bệnh hắc lào (cắt đôi, xát trực tiếp vào nơi tổn thương), dùng liên tục 7-8 ngày là khỏi. Với trẻ táo bón, người ta lấy 1-2 quả chuối chín đem vùi vào bếp lửa cho vỏ quả ngả màu đen chín nhũn, lấy ra để nguội cho trẻ ăn, khoảng 10 phút sau là đi tiêu được. Chữa cảm nóng sốt cao phát cuồng: đào lấy củ chuối hột rửa sạch, giã nát, vắt lấy 1 bát nước cho uống sẽ giảm sốt và không nói mê./.
Một cách khác, dùng chuối hột một buồng già, đem thái mỏng, phơi khô, tán nhỏ thành bột, mỗi ngày uống 3 thìa canh, uống liền 2-3 tháng. Hoặc quả chuối hột đã thái mỏng, sao vàng, hạ thổ 7 ngày; mỗi ngày lấy 1 vốc tay (chừng 1 quả) sắc với 3-4 bát nước, uống vào lúc no.

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2013


Thuốc ho bột đặc trị của Đông y gia truyền Hương Hương

Công dụng:

Chữa các chứng ho, ho tức ngực, ho khó thở, ho viêm phế quản, viêm phổi, ho có đờm, ho khan, ngứa cổ, họng sưng, ho kéo dài từng cơn, ho do thời tiết thay đổi, ho khò khử. Đặc biệt đã dùng nhiều thuốc kháng sinh và các loại thuốc khác rồi mà không khỏi

Liều dùng:
Người lớn:
Ngày uống 3 gói nhỏ chia làm 3 lần
Trẻ em:
Từ 2 – 5 tuổi ngày uống 1 gói nhỏ chia làm 3 lần
Từ 6 – 12 tuổi ngày uống 1,5 gói nhỏ chia làm 3 lần
Uống sau bữa ăn 15 phút
Hòa thuốc với 1/2 cốc nước âm ấm
Kiêng:
Đỗ xanh, đồ tanh, thịt gà, thịt chim, ớt, tiêu
Bảo quản: Nơi khô dáo
Thuốc chế từ thảo dược không có phản ứng phụ
Chú ý: Không dùng thuốc cho phụ nữ có thai, phụ nữ mới sinh con 01 tháng và trẻ em dưới 2 tuổi


Mẩn ngứa vùng âm hộ là bệnh ngoài da thường gặp ở phụ nữ. Sau đây là một số phương thuốc dân gian, cổ truyền theo hướng dẫn của lương y Như Tá và Quốc Trung.

Bài thuốc dân gian
Những trường hợp ở vùng quê xa xôi, theo kinh nghiệm dân gian có thể dùng một trong các bài thuốc sau: hoa kim ngân, kinh giới (mỗi thứ 5 gr), rau sam 10 gr, cho cả hai vào nồi nước, nấu khi nước gần đặc, bỏ bã, lấy nước chia 3 lần dùng trong ngày, trước mỗi bữa ăn. Dùng độ 5 ngày liền như vậy. Cùng đó phối hợp thêm cách dùng ngoài: ngải cứu khô 20 gr cho vào nồi cùng 300 ml nước, nấu lửa nhỏ đến khi sôi. Dùng nước này đem xông để lấy hơi nóng lan tỏa vào vùng ngứa. Xông đến khi nước chỉ còn âm ấm, thì đem nước này rửa kỹ vùng bị ngứa, ngày rửa 1-2 lần, làm liền trong 5 ngày.
Hoặc dùng ích mẫu 5 gr, kinh giới 3 gr, thổ phục linh 5 gr. Cũng nấu lấy nước và dùng như bài nói trên, và phối hợp cách dùng ngoài: lá diếp cá 120 gr nấu lấy nước xông, rửa vùng ngứa cũng như cách làm ở trên. Hoặc một kinh nghiệm dân gian khác là, dùng lá khổ sâm 50 gr đem sấy khô, tán thành bột mịn, ngày uống 2 lần, mỗi lần 5 gr trước khi ăn. Phối hợp dùng bên ngoài: 30 gr toàn thân cây bóng nước rửa sạch, để lên một miếng ngói sạch, khô, đặt miếng ngói lên than hồng, khi cây bóng nước bốc khói thì đem xông khói vào chỗ ngứa, thời gian xông khoảng 5-10 phút, sau đó cho thân cây bóng nước vào nước sôi, khuấy đều, dùng rửa chỗ ngứa, ngày 1-2 lần.

Theo y học cổ truyền, nguyên nhân của bệnh này phần nhiều do thấp nhiệt sinh trùng, thuộc can kinh sinh ra, và được chia ra làm 2 dạng:Phương thuốc cổ truyền
- Can kinh thấp nhiệt: âm hộ ra nước, đau nhức, cổ khô, miệng đắng, ngực tức sườn đau, bồn chồn nóng nảy, đại tiện bí kết, tiểu tiện vàng đỏ, són, không thông suốt. Trường hợp này có thể dùng bài thuốc gồm các vị: tỳ giải, hoàng bá, thương truật, xích linh, đan bì, hoạt thạch (mỗi loại 10 gr), ý dĩ 12 gr, trạch tả 12 gr, thông thảo 6 gr, tri mẫu 8 gr. Sắc (nấu) uống ngày 1 thang, uống 10 ngày liền. Chia 3 lần uống trong ngày sau khi ăn.
- Can kinh uất nhiệt: âm hộ ngứa ngáy không chịu được, cơ thể gầy yếu, nóng trong người, ít ngủ, đại tiện táo, tiểu tiện hơi vàng, không thông. Trường hợp này có thể dùng bài thuốc gồm các vị: thược dược, bạch truật (mỗi loại 12 gr), đương quy, phục linh (mỗi loại 10 gr), sài hồ, đan bì, chi tử (mỗi loại 8 gr), cam thảo chích 6 gr. Sắc uống ngày 1 thang, chia làm 3 lần dùng trong ngày. Dùng liền 10 ngày.
Khi đang gặp tình trạng này, trong ăn uống cần tránh các thức ăn cay nóng, có tính kích thích như tiêu, ớt, hành, gừng, tỏi…
Design by Hao Tran -